Thursday, July 29, 2010

Đường Hồ Chí Minh trên biển - phần1

Cách đây đúng 37 năm Bộ tư lệnh hải quân đã giao cho đoàn 125 – đơn vị “tàu không số” một nhiệm vụ đặc biệt “tối mật”: vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí vào miền Nam, góp phần chi viện kịp thời cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của đồng bào miền Nam.

Bốn tàu C.43, C.56, C165, C.235 đã vinh dự được nhận nhiệm vụ này. Cả bốn tàu đều gặp địch sau đó… Và con tàu đã đi vào huyền thoại của hải quân Việt Nam bằng cuộc chiến đấu dũng cảm của các thủy thủ trên vùng biển địch…

… Một ngày sau khi C.56 rời bến, ngày 27-2-1968, tàu 235 nhổ neo tại một căn cứ khác của đoàn 125 – căn cứ A3 vào đúng 11g 30 phút. Đây là chuyến đi thứ hai của C.235 trong tháng hai. Chuyến thứ nhất, tàu xuất phát vào ngày 6-2 nhưng hành trình của tàu luôn bị máy bay và tàu chiến dịch theo dõi, vì vậy tàu buộc phải quay trở lại căn cứ. Lần này điểm tập kết 14 tấn “hàng” là bến Hòn Hèo thuộc hai xã Ninh Phước, Ninh Vân (Khánh Hòa). Đây là khu vực cực kỳ hiểm trở - cách Nha Trang 12km về phía Bắc, luồng hẹp, nhiều đá ngầm, có núi cao bao bọc phía ngoài, và vô cùng nguy hiểm – gần quân cảng Cam Ranh, hang ổ của hải quân địch; có hai căn cứ rada gần đó cùng với tàu chiến, máy bay trinh sát chỉ điểm, tàu tuần tiễu hoạt động gần như 24/24 giờ.

Tàu 235 là tàu cao tốc, chạy bốn máy, tốc độ trung bình 12 hải lý/giờ do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy gồm 20 cán bộ chiến sĩ trẻ. Chính trị viên tàu là Nguyễn Tương, người cùng quê hương Điện Bàn với Phan Vinh. Trước chuyến đi này con trai đầu lòng của anh vừa tròn 4 tháng tuổi.

Nhật ký của C.235

Đi hai ngày, hai đêm trên vùng biển quốc tế, đến ngày 29-2-1968 vị trí C.235 ở ngang vùng biển Nha Trang.

- 18 giờ ngày 29-2: máy bay trinh sát của địch phát hịên ra tàu 235.

- 20 giờ cùng ngày, 235 vẫn quyết định chuyển hướng vào bờ.

- 22 giờ 30 phút, 235 điện về Sở chỉ huy: “Cách bờ 19 hải lý, gặp tàu và máy bay địch bám. Phan Vinh”.

- 23 giờ, C.235 bắt đầu tiến vào bờ. Phát hiện ra 235, hải quân vùng 2 duyên hải ngụy lập tức điều ba tàu chiến Ngọc Hồi, H.Q 12, H.Q 617 và bốn tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển phía Bắc Nha Trang với ý định bắt sống C.235.

- 23 giờ 30 phút: tất cả đèn trên tàu địch đều tắt. Chúng phục kích, theo dõi 235 bằng rada. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định điều khiển 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đã đến được bến (xã Ninh Phước) lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Nhưng hoàn toàn không có người của bến ra đón 235. Không chần chừ thuyền trưởng Vinh ra lệnh khẩn trương cho hàng xuống nước để bến có thể vớt sau. Các bao hàng đóng gói đặc biệt được các thủy thủ lần lượt vần xuống. Chừng một giờ sau hàng trên tàu vơi dần. Lúc này là 1 giờ 30 phút sáng 1-3. Phía ngoài, ba tàu loại lớn và 4 tàu nhỏ của địch vẫn đang khép chặt vòng vây.

- 1 giờ 40 phút sáng 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh đột ngột ra lệnh ngừng thả hàng. Anh đưa tàu chạy ven bờ để nghi binh vị trí bến nhận hàng. Tàu chiến dịch lập tức đuổi theo. Tất cả tàu địch đồng loạt bật đèn pha và điện cho nhau: tàu nào không bật đèn là tàu “Việt cộng”. Tàu 235 lọt vào tình thế ngặt nghèo. Trước mặt là núi chắn sừng sững. Sau lưng, bảy tàu chiến địch dàn hàng ngang chặn lối ra. Cuộc săn đuổi tàu 235 mà sau này bọn địch gọi là “chiếc tàu ma” đã bắt đầu diễn ra…

Bài tường thuật trên đài tự do

Hồi 13 giờ ngày 24-3-1968 đài Tự do có giới thiệu bài “tường thuật đặc biệt” về một trận đánh trên biển với “Việt cộng”: “… Đây là bài tường thuật vụ đuổi bắt chiếc “tàu ma” ở Nha Trang… Hồi 1 giờ 36 phút, chiến hạm Ngọc Hồi dùng rada phát hiện được tàu địch, H.Q 12, H.Q 617 và các thuyền ta tìm cách chặn bắt tàu trên. Lúc này tàu ta được lệnh thắp đèn, tàu không thắp đèn là tàu địch bị khép chặt vào giữa, trong là bờ cạn.

Lúc 2 giờ ngày 1-3 cách Hòn Hèo năm hải lý, tàu lạ chạy vào bờ lẩn trốn chạy vào bờ lẩn trốn. Đến 2 giờ 30 phút các tàu ta được lệnh đồng loạt bắn các loại súng nhỏ từ 12 li 7 trở xuống với ý định bắt sống tàu địch. Các pháo lớn bắn vào bờ không cho địch trên tàu tẩu thoát, đồng thời gọi phi cơ đến thả hỏa châu soi sáng. Biết không thể nào tẩu thoát, Việt cộng ở trên tàu và ở trên bờ đã phản pháo.

Lực lượng trên bờ của địch khoảng một tiểu đoàn, có lẽ đã nhận nhiệm vụ yểm trợ tàu. Biết vậy, các chiến hạm của ta đã được lệnh bắn pháo lớn vào tàu địch. Sau ba mươi phút chống trả, tàu địch bốc cháy. Lúc này phi cơ được gọi đến bắn phá dọn đường ở dọc biển cho một cuộc lục soát. Đến 2 giờ 41 phút chỉ huy trưởng vùng 2 chiến thuật chỉ thị đổ bộ ngay trước khi trời sáng, nhưng vì hỏa lực Việt cộng bắn ra dữ dội nên lực lượng đổ bộ phải rút lui chờ quân chi viện…”.

Nhật ký C.235 từ 1 giờ 50 phút sáng 1-3-1968…

… Dưới ánh đèn pha gay gắt, tàu địch được lệnh bắn xối xả vào C.235… Trong ánh chớp lập lòe thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh lái tàu chạy sát vào bờ, chỉ huy anh em chiến đấu. Các thủy thủ dùng DKZ và súng 14 li 5 bắn về phía địch… Những tàu cỡ nhỏ của địch không chịu đựng nổi hỏa lực của C.235, dần dần dạt ra vòng ngoài. Nhưng chỉ trong chưa đầy nửa giờ chiến đấu đã có 5 đồng chí hi sinh, bảy đồng chí bị thương, trong đó có cả thuyền trưởng Phan Vinh…

- 2 giờ 20 phút ngày 1-3-1968: thuyền trưởng Phan Vinh có ý định phá vòng vây. Anh suy nghĩ, ra khơi sẽ dễ cơ động đối phó với địch. Nếu cần thì có thể áp sát tàu địch và cho giật kíp ba tấn bộc phá đã gài sẵn, phá 235 cùng với tàu địch… Tàu 235 đột ngột tăng tốc rồi lao vọt ra cửa vịnh. Ngay lập tức pháo địch từ các khu trục hạm tập trung hỏa lực nã vào 235. Giữa lưới lửa đỏ bỏng rát đó, 235 mỏng manh luồn lách như một chiếc lá… Một quả đạn pháo trúng gần buồng máy, 235 sựng lại rồi dừng hẳn: máy tàu đã hỏng nặng. Phương án 2 – phá vòng vây thế là không thành. Tàu 235 đang cách bờ độ 100m. Phan Vinh quyết định cho tất cả rời tàu bơi vào bờ. Kíp hẹn giờ nổ đã được vặn đến con số 15 phút.

- 2 giờ 40 phút ngày 1-3-1968: một cột lửa bùng lên, kế đó là một tiếng nổ khủng khiếp, chấn động tới tận Nha Trang. Sức công phá của ba tấn thuốc nổ khiến C. 235 bị đứt làm đôi. Một nửa chìm xuống biển, nửa còn lại văng lên lưng chừng núi Ba Nam (xã Ninh Vân). Kinh ngạc tột độ, bọn địch cuống cuồng gọi máy bay đến bắn phá cày nát vùng ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235.

- 3 giờ sáng ngày 1-3-1968: bọn địch từ tàu đổ bộ lên bờ sục sạo nhưng đã bị thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ - hai người cuối cùng rời khỏi 235, đón đầu, kiên cường đánh trả nên chúng đành rút lui, chờ viện binh. Ở một cánh lên bờ khách chỉ còn lại thuyền phó Đoàn Văn Nhi và 6 thủy thủ: Mai, An, Thật, Phong, Khung, Tuyến. Đã có 11 anh em hi sinh.



… Những ngày sau đó bảy người còn lại của C.235 – vừa bị thương, không lương thực, không nước uống dìu nhau đi vào khu vực Hòn Hèo. Họ bị kiệt sức dần. Đến ngày thứ 11 Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Chiều hôm đó Thật và An đi tìm Khung, bị lạc. Ngày thứ 12 Thật tìm được du kích ở bến. Hôm sau, An, Tuyến, Mai, Phong cũng liên lạc được với du kích. Mọi người quay lại đón thuyền phó Nhi đang nằm đợi trong rừng. Nhưng anh đã không còn ở đó nữa. Những gì còn lại chỉ là một mảnh bông băng đã khô máu, một mảnh áo rách…



Con tàu gồm 20 anh em, giờ chỉ còn lại 5 người: Thật, Phong, Mai, An, Tuyến. Năm con người sức tàn lực kiệt ấy đã nương tựa nhau cùng vượt Trường Sơn. Và sáu tháng sau họ đã trở lại miền Bắc, tiếp tục nhiệm vụ của mình…



Những phút cuối cùng của thuyền trưởng Phan Vinh



Trích tường thuật của đài Tự Do về trận đánh ở Hòn Hèo: “… Các phi tuần, trực thăng, khu trục võ trang được gọi đến bắn phá. Cuộc lục soát bắt đầu. Một toán từ phía Bắc xuống, toán khác từ dọc đồi phía Nam tiến lên khu vực Tân Định, một lực lượng khác gồm 4 tàu dàn hàng ngang tiến vào vịnh HQ.12, HQ.617 tiếp tục bắn phá yểm trợ vào sườn núi và đưa lực lượng thủy quân lục chiến vào bờ cùng hỗ trợ…”.



Trích tạp chí Lướt sóng của hải quân ngụy: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ đã đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt cộng gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hi sinh với con tàu bằng khối lượng hàng chục tấn bộc phá, không để lại một dấu vết…”.



… Ở gần chỗ tàu nổ, lúc gần sáng, địch đổ quân xuống, lùng sục. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã đoán được ý định của địch, chốt chặn sẵn ở đó để những anh em khác rút an toàn. Cả hai anh đều bị thương khá nặng nhưng đã ngoan cường trụ vững chống trả các đợt tấn công của một tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên ở cả hai mũi tiến công. Phan Vinh và Thứ đã ở ngay giữa hai gọng kìm của địch. Chiến đấu độ nửa giờ, vết thương ngày một nặng, sức lực cạn kiệt, súng không còn đạn, các anh đã hi sinh. Bọn địch từ hai cánh quân tiếp tục nổ súng bắn vào nhau, thương vong cả hai phía khá nhiều, chúng buộc phải điện về chỉ huy sở “đã gặp địch mạnh, buộc phải rút lui”…



… Hơn nửa tháng sau đó năm anh em thủy thủ đoàn 235 đã tìm được nơi diễn ra trận đánh cuối cùng của Phan Vinh và Ngô Văn Thứ. Các anh vẫn ở trong tư thế nằm vươn người về phía trước như giữa lúc chiến đấu ghìm hai cánh quân địch. Dấu vết còn lại sau trận chiến ác liệt là những hố đạn sâu hoắm, những thân cây ngã gục, cháy loang lổ… Năm đó thuyền trưởng Phan Vinh vừa tròn 35 tuổi, chưa một lần yêu…



Chuyến đi này 15 cán bộ chiến sĩ của tàu 235 đã yên nghỉ ở Hòn Hèo. Bốn con tàu của đoàn 125 ra đi làm nhiệm vụ, chỉ có tàu 56 trở lại. Tàu 165 với 18 cán bộ chiến sĩ, trong đó có 15 đảng viên, 3 đoàn viên đã cảm tử ra đi sau khi điểm hỏa phá tàu và phá hủy ba chiếc tàu của địch. Tàu 43 đã bắn chìm và bắn hỏng một tàu, bắn rơi một máy bay địch, sau đó các thủy thủ đã phá hủy tàu…



… Hai năm sau ngày hi sinh, tháng 8-1970 liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh đã được Quốc hội và Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tên anh đã được đặt cho một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đảo Phan Vinh nằm ở 8 độ 56 phút vĩ bắc và 113 độ 38 phút kinh đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 430 hải lý…



(Dựa theo tư liệu của lữ đoàn 125, tư liệu trích từ sách Đường mòn trên biển của nhà văn Nguyễn Tử Đương và lời kể của đại tá Trần Phong – nguyên trợ lý tham mưu tiểu ban tác chiến đoàn 125 giai đoạn 1968…)

Xác minh một truyền thuyết


Chúng ta đang đi tìm một con đường. Con đường ư? Trên trái đất này ai đếm hết được những con đường. Hàng ức, hàng triệu, hàng tỉ. Một nhà văn lớn, cũng là nhà tư tưởng lớn có nói: “Người đi trên mặt đất thì thành đường”.

Rất đúng! Nhưng còn người đi trên biển, trên mặt nước xanh phẳng lì đang trải ra trước mắt kia? Biển không để lại dấu vết, không để lại đường mòn. Biển xóa tất cả. Chỉ còn lại mặt nước mênh mông, phẳng lì, bí mật, câm lặng. Mãi mãi câm lặng.

Còn không dấu vết một con đường?

Câu chuyện của chúng ta hôm nay là câu chuyện về một con đường như thế, ngày xưa hoàn toàn câm lặng, hôm nay vẫn còn câm lặng, và rồi chắc sẽ mãi mãi ngày càng chìm sâu vào câm lặng, đến vĩnh hằng, ngày càng chìm sâu vào phẳng lì của biển và phẳng lì của thời gian nếu chúng ta không đánh thức nó dậy, không cố cùng nhau lần tìm ra nó trong thăm thẳm của biển, của thời gian và của ký ức biết ơn.

Con đường ấy là như vậy đó, con đường bí mật xuyên biển Đông vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam thời chiến tranh chống Mỹ.

Chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm của mình giữa cuộc sống hôm nay bộn bề, tấp nập, ngổn ngang... Và cũng phải nói trước điều này: những cái mốc để chúng ta có thể bấu víu vào đấy mà đi tìm, lần ra sự tích cũ chẳng còn bao nhiêu cả. Tư liệu, chứng cứ cũ hầu như chẳng còn gì đáng kể. Chúng đã chìm sâu trong câm lặng của mặt nước không biết nói.

Tài liệu lưu trữ trong các kho bảo mật hoặc đã mục nát, hoặc đã thất lạc gần hết. Những chiếc tàu xưa chẳng còn. Nghe nói ở đâu đó trong một vàm rạch hoang vắng tận cuối mũi Cà Mau còn xác một con tàu, may mà chưa bị bán làm sắt vụn, nhưng cũng đang tan thành gỉ nát vì thời gian và nước mặn...

Còn những con người? Người đã hi sinh, mãi mãi vùi thân trong biển sâu. Người đã qua đời sau chiến tranh vì già yếu, vì những di chứng của chiến tranh. Những người còn lại thì đang tản mác khắp đất nước, trong những xóm làng, những kênh rạch hẻo lánh đâu đó. Họ vốn vô danh. Hôm qua vô danh vì sự khắc nghiệt của nhiệm vụ. Hôm nay vô danh trong ồn ào cuộc sống đua chen.

Ta đi tìm chính những con người ấy.

Là ai? Ta chưa biết.

Trong tay chúng ta lúc này chỉ có mỗi một tài liệu nhỏ: tập phác thảo lịch sử Lữ đoàn Hải quân 125, chắc là được viết khá vội và quả thật còn khá thô sơ.

Đây là chứng cứ đầu tiên về thiên huyền thoại một thời. Dấu vết đầu tiên về một huyền thoại có thật, được ghi lại trên những trang giấy ố vàng. Một tập sách khổ rộng, không dày, giấy xấu, in roneo. Có trang còn chen cả chữ viết tay, mực tím đã phai mờ: hẳn có ai đó đã sửa chữa, bổ sung. Ngay từ những trang đầu tiên ta gặp một con số: năm 1959, và một tên người: đồng chí Võ Bẩm.

Năm 1959: đó là một con số không thể quên. Một cái mốc lịch sử: miền Nam đứng dậy. Và cuộc chiến tranh bắt đầu. Vì sự sống còn của dân tộc. Và miền Nam gọi.

Có ai ngày ấy không nghe thấy tiếng gọi đó, của máu, của nước mắt, của ý chí tự do, độc lập và thống nhất. Của Chợ Được, của Vĩnh Trinh, của Hướng Điền, của Trà Bồng, của Bến Tre...

Miền Nam gọi súng. Miền Nam đòi súng.

Con đường xẻ dọc biển Đông

Có thể tìm được đồng chí Võ Bẩm hôm nay tại căn nhà số 25 Phan Đình Phùng, Hà Nội.

Đó là một cụ già tóc đã bạc phơ, nhưng vẫn còn rất rõ dáng nét của một con người đậm chắc, quắc thước. Vầng trán rộng, cương nghị. Cặp mắt tinh anh và trầm tĩnh. Hao hao cái dáng vẻ những người chiến sĩ khởi nghĩa thời Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.

Một buổi chiều Hà Nội giờ tan tầm. Tấp nập xe cộ trên đường. Những cây sấu già. Những cây bằng lăng nở đầy hoa tím. Ông cụ ấy nhớ lại:

- ... Đó là vào đầu năm 1959. Chúng tôi được Bác Hồ gọi lên. Bác nói: miền Nam đã đứng dậy. Miền Nam đang gọi. Phải nhanh chóng đưa súng đạn vào cho bà con trong đó. Bác giao nhiệm vụ cho chúng tôi: phải bằng mọi cách mở đường vào Nam. Chấp hành chỉ thị của Bác, tháng 5-1959 con đường Bắc - Nam xẻ dọc Trường Sơn được mở. Bắt đầu là một con đường mòn. Gọi là đường 559 vì nó ra đời tháng 5-1959. Còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Bác từng nói: Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được độc lập...

Song song với con đường xẻ dọc Trường Sơn, tháng 7-1959 ta quyết định mở cả con đường Bắc - Nam xẻ dọc biển Đông. Bởi vì đi trên biển nguy hiểm hơn nhưng cũng nhanh hơn. Tiếng gọi của chiến trường cấp bách quá...

Đường biển Đông là mạo hiểm, là tử địa, đúng vậy. Nhưng cũng là bất ngờ. Với lại ta từng có kinh nghiệm rồi: trong kháng chiến chống Pháp ta cũng đã có một con đường vận chuyển vũ khí bí mật xuyên biển Đông từ Khu 5 vào Nam bộ.

Tháng 7-1959 chúng tôi thành lập một tiểu đoàn lấy tên là 644, giả danh là “tập đoàn đánh cá miền Nam” đóng tại cửa sông Gianh, do đồng chí Lưu Đức và đồng chí Hà Văn Xá chỉ huy, chuyên lo tổ chức đưa thuyền bí mật chở vũ khí vào Nam. Chuyến đi thí nghiệm đầu tiên xuất phát từ cửa sông Gianh đúng đêm 30 tháng chạp năm 1959, nhằm vào chân đèo Hải Vân, Quảng Nam...

- Ai đã đi chuyến đầu tiên ấy?

Anh Bẩm ngồi lặng hồi lâu.

- Không, tôi không thể nhớ... Chuyến ấy thất bại. Thuyền mất tích. Chắc là tất cả đã hi sinh... Chắc mãi mãi không còn ai biết tên tuổi họ... Tôi chỉ biết người đã nằm chờ đón chuyến thuyền bí mật ở chân đèo Hải Vân suốt một tháng ròng mà không đón được. Người ấy là Nguyễn Chơn, tổng tham mưu phó hiện nay...

Cửa sông Gianh. Lịch sử có những nghịch lý thật kỳ lạ và lý thú. Sông Gianh, con sông của Trịnh - Nguyễn phân tranh, của một thời chia cắt đất nước đau đớn kéo dài hơn trăm năm. Nơi nào đây, trên hai bờ con sông hiền hòa này, từng đối mặt hai đội quân thù nghịch của một cuộc tử chiến huynh đệ.

... Rồi cũng chính con sông này, cái cửa sông có bãi cát trắng phau này, lại là điểm bắt đầu của một con đường máu mủ nối liền Bắc - Nam thống thiết và mạo hiểm thời đánh Mỹ.
Chúng ta lần theo hai ven sông, qua những xóm làng chài, những cồn cát, những bến phà, những rừng phi lao ngày đêm hát trong gió... Cố tìm lại một chút dấu vết của cái năm tháng lịch sử ấy, năm 1959, của cái “tập đoàn đánh cá miền Nam”, cái tiểu đoàn 644 ẩn danh, bí mật một thời ấy.

Tuyệt đối không còn tìm thấy gì.

Các cụ già bảo:

- Không, bọ không hề nghe nói...

Cả những người lính thủy của đơn vị hải quân hôm nay đang đóng giữ cửa biển này:

- Không, không từng có con đường bí mật nào bắt đầu từ đây cả...

Những hàng phi lao, có cây đã thành cổ thụ kia, có thể bàn tay một người thủy thủ trong số những người thủy thủ đã mất tích trên biển Đông cái đêm sóng gió 30 tết ấy đã từng đặt tay lên lớp vỏ cây này, mân mê, trìu mến, như muốn nói một lời từ biệt trước lúc lên đường đi vào cõi mịt mùng biển đen, mười phần nắm chắc trước sự hi sinh đến tám, chín phần... Nhưng tiếng hát của hàng phi lao trong gió, dẫu có muốn kể lại kỷ niệm thống thiết xưa, hôm nay ta nào có nghe hiểu được.

Tức là cuộc đi tìm, lần theo con đường vô hình xưa cũ của chúng ta, vừa mới bắt đầu đã có cơ tắc lại.

Ta đành từ giã sông Gianh ra đi.

Đi về đâu?

Tìm người vô danh

Năm 1959, những ngày đen tối và quyết liệt, khi cách mạng miền Nam từ trong máu và nước mắt, trong đau thương và chết chóc đang gượng mình đứng dậy, ra sức chuyển đêm thành ngày.

Câu chuyện của Nguyễn Chơn

Tỉnh ủy bí mật Quảng Nam, bấy giờ thật sự chỉ còn là một nhóm người đói khát mà cháy bỏng ý chí và khát vọng, đang náu mình trong một khu rừng sâu dưới chân ngọn núi Chúa. Cái tỉnh ủy bí mật ấy có một ban quân sự. Gọi là quân sự, kỳ thực chỉ là một nhúm vũ trang mà số người đếm được trên đầu ngón tay, do anh Nguyễn Chơn phụ trách. Họ có một điện đài hết sức thô sơ...

Một đêm nọ, cái điện đài ấy nhận được một bức điện bí mật từ Hà Nội chuyển vào: “Trung ương gửi cho các đồng chí Quảng Nam một số súng bằng đường biển. Thuyền sẽ vào bến Hố Chuối dưới chân đèo Hải Vân. Hãy cử người đón, từ đêm mồng một Tết âm lịch”.

Nguyễn Chơn được giao nhiệm vụ đi đón chuyến vũ khí đó. Ngày trốn trong hang đá. Đêm ra ngồi trên những tảng đá hoang vắng, tê buốt, chong mắt nhìn ra biển đen, sục tìm bóng dáng một con thuyền.

Đêm nào cũng vậy. Gạo hết. Cả củ chuối rừng cũng đã đào ăn hết.

Một đêm. Hai đêm. Ba đêm... Mười đêm... Hai mươi đêm... Một tháng ròng...

Thuyền không đến. Súng không đến. Còn người?

Anh Nguyễn Chơn nói:

- Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không hề được biết những người tôi phải đi đón ngày ấy là ai.

Im lặng một lúc lâu rồi anh lại nói:

- Có lẽ chỉ có thể đoán rằng những thủy thủ đó chắc phải là người Quảng Nam, hẳn quê một làng, một xã nào đó cũng quanh chân đèo này thôi, có thể từng là dân đánh cá rất am hiểu biển bờ núi non ở đây, hẳn người ta phải chọn những người như vậy để đưa con thuyền bí mật vào bến này...

Một người vô danh

Ước đoán đó của anh Nguyễn Chơn bỗng gợi lên cho chúng tôi một ý tưởng: có thể tìm ra, ít nhất là đôi chút dấu vết của những người thủy thủ vô danh đã biệt tích mãi mãi ấy, ở đâu đó trong các xóm làng ven chân ngọn đèo này chăng?

Chúng tôi la cà trong làng chài Nam Ô. Gặp các mẹ, các bà, các cụ già... Và kỳ lạ thay chúng tôi tìm ra, không phải là một dấu vết mà là một con người. Một thủy thủ của chuyến đi đầu tiên huyền thoại ấy. Con người ấy còn sống. Một ngư dân làng chài Nam Ô hôm nay: anh Huỳnh Ba.

Đó là một người đã hơn 60 tuổi, tóc muối tiêu, chân mày đã có sợi bạc. Ngồi lẫn trong đám ngư dân trên bãi biển hôm nay thật khó nhận ra ở anh một nét gì đặc biệt, thậm chí anh còn có vẻ hơi lẩn khuất trong đám người ồn ào.

Chỉ thật tinh mới có thể dần dần nhận ra điều này: anh không có hoặc là đã đánh mất đi nét tính cách thường gặp phổ biến ở những người dân biển: khoáng đạt, ồ ạt, liều lĩnh, ồn ào, ăn sóng nói gió, bạt mạng. Ở anh là sự trầm tĩnh, suy tính, cẩn trọng. Đôi mắt rất kín đáo, luôn quan sát, dò xét, tính toán. Anh nói chậm và nhỏ, ít lời, như cân nhắc từng lời nói ra.

Tất cả ở anh đều thể hiện một tính cách chín chắn, cẩn trọng, có lẽ đúng hơn nữa: cảnh giác. Sự gan dạ, có thể là sự gan dạ đến quyết liệt, gan lì ẩn sâu trong đôi mắt màu nâu đục nặng trĩu suy tư.

Ngày ấy, người ta đã chọn một con người như vậy để tiến hành chuyến mở đường đầu tiên mạo hiểm xuyên biển Đông: một con người đã từng trải trong hoạt động địch hậu, biết giấu dưới cái vẻ mộc mạc, giản dị, bình thường, tầm thường bên ngoài của mình sự mưu trí vừa liều lĩnh quyết liệt vừa cẩn trọng, và cái quyết tâm có thể còn rắn hơn cả sắt thép.

Tiểu đoàn 644, hay có khi còn gọi là đơn vị 759, tức là cái “tập đoàn đánh cá miền Nam” mạo danh đóng ở cửa sông Gianh ngày ấy, tập hợp toàn những con người như vậy đấy, không nhiều.

Một số ra Bắc từ ngày tập kết 1954, một số ở lại trong Nam, là đảng viên được bố trí nằm vùng hoạt động bí mật trong lòng địch, rồi sau đó vượt tuyến ra Bắc theo một mật lệnh phát ra từ một trung tâm chỉ đạo nào đó mà chính họ cũng không hề biết.

Huỳnh Ba thuộc loại thứ hai. Anh là đảng viên, được bố trí ở lại nằm vùng. Và giữa năm 1959 Huỳnh Ba nhận được lệnh bí mật tìm đường vượt tuyến, qua sông Hiền Lương, ra Bắc... Anh trở thành một trong những chiến sĩ đầu tiên của “tập đoàn đánh cá miền Nam” ở cửa sông Gianh.

Ở đấy họ đi đánh cá thật sự cùng với ngư dân địa phương để ngụy trang. Và bí mật đóng thuyền: những chiếc thuyền đánh cá hệt kiểu thuyền Quảng Nam, ở Quảng Nam người ta gọi là ghe bầu.

Những ngày tháng chạp năm 1959. Ở “tập đoàn đánh cá miền Nam” tại cửa sông Gianh, người ta khiêng, chất đống những thùng hàng bọc vỏ thiếc, những bó súng quấn vải dầu chống thấm.

4 giờ chiều.

Trên bến sông Gianh, 10 con người, năm người đi tiễn năm người sẽ lên đường. Chén rượu chia tay. Những cái nắm tay siết chặt, rất có thể là lần cuối cùng.

Cánh buồm được kéo lên, trắng nhờ trong đêm đen.

Một cơn gió bất ngờ ào đến.

Chiếc ghe giả rời bến, lao ra khơi, lao vào đêm đen.

Và mất hút trong màn đêm đặc kín.

Bên chiếc máy điện tín thô sơ, một cô báo vụ viên đang hối hả gõ nhịp máy. Bức điện viết:

Gửi Tỉnh ủy Quảng Nam,
Thuyền rời bến 30 tết. Dự kiến đến sau hai ngày. Đón tại Hố Chuối chân đèo. Nhận được báo cáo...

Chuyến đi mở đường

Anh Huỳnh Ba kể lại với chúng tôi câu chuyện năm xưa của anh trên một chuyến anh rủ chúng tôi cùng đi biển đánh cá. Câu chuyện được rì rầm kể lại trên biển đêm yên tĩnh.

- Chúng tôi có năm người: anh Nguyễn Xanh, quê Tam Kỳ, về sau đã hi sinh. Anh Trần Mức, quê Quảng Ngãi, về sau có về làm cán bộ huyện đội Mộ Đức, Quảng Ngãi, cũng đã hi sinh. Anh Huỳnh Sơn, người Thăng Bình, đã hi sinh. Anh Nguyễn Nử, người Duy Nghĩa, Duy Xuyên, cũng đã hi sinh.

Và tôi. Nay còn lại mỗi mình tôi.

Tất cả chúng tôi đều từng là thủy thủ trong các đội thuyền chở vũ khí bí mật từ Khu 5 vào Khu 6 và Nam bộ thời chín năm chống Pháp. Thời ấy chúng tôi từng có kinh nghiệm: ra đi vào đúng những ngày dông bão lớn, biển động hoặc những ngày tết. Ấy là những lúc địch xao nhãng tuần tra trên biển. Giờ đây cũng vậy, ra đi đúng đêm 30 tết.

Đêm thứ nhất, tức đêm giao thừa, đã phải vật lộn với gió cấp 5, cấp 6. Đến sáng mồng 1 thì trời xuống gió to hơn: cấp 7, cấp 8. Vẫn ra sức chống chèo. Khoảng 12 giờ trưa, bị gãy mất tay lái. Nhưng chúng tôi còn một tay lái dự phòng. Đến trưa mồng 2 thì gãy tiếp tay lái thứ hai. Kéo lên sửa mấy lần không được. Bây giờ thì đành thả trôi.

Sáng mồng 4, tôi nhận ra đảo Lý Sơn cách chừng 6- 7km. Biển đã lặng. Biển lặng thì dân Lý Sơn đổ ra đánh cá nhiều. Mà bọn thuyền địch cũng ra. Tức là có nguy cơ bị bắt. Chúng tôi quyết định thủ tiêu hàng hóa. Tất cả có 6 tấn: 500kg vải, 400kg nilông đi mưa và thuốc men, chủ yếu là thuốc chống sốt rét. Còn lại toàn súng đạn. Vứt hết xuống biển. Có một nguyên tắc: tuyệt đối không để hàng rơi vào tay địch...

4g30 chiều hôm đó chúng tôi bị bắt. Đã bàn với nhau trước: chúng tôi là thuyền đánh cá, bị bão trôi dạt vô đây. Tất nhiên là chúng không tin. Bị giam ở đảo Lý Sơn một tuần. Rồi đưa về Đà Nẵng nhốt hai tháng rưỡi. Rồi vào Tổng nha Sài Gòn. Rồi Chí Hòa. Lao Chí Hòa đầy quá lại gửi qua lao Gia Định.

Đầu năm 1961 về Phú Lợi. Năm 1964 nhà lao Phú Lợi giải tán, tôi ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, lâu lâu lại bị gọi về Sài Gòn tra khảo, khai thác. Trước sau tôi ra Côn Đảo tất cả 12 lần... Cho đến cuối năm 1974 tôi được thả ra. Bệnh tật, xơ xác. Lần mò về được đến Nam Ô cũng vừa là ngày giải phóng Đà Nẵng, 29-3-1975...

Sau chuyến mở đường đầu tiên thất bại, có một cuộc họp đã diễn ra bên tấm bản đồ lớn, đất và biển miền Nam. Rồi một bức điện tuyệt mật được đánh đi từ cơ quan đầu não tối cao:

Gửi Trung ương Cục và tất cả các tỉnh ven biển miền Nam,

Các tỉnh tổ chức cho thuyền bí mật vượt biển ra Bắc, báo cáo tình hình bến bãi, tình hình địch bố phòng ven biển và tuần tiễu trên mặt biển. Rồi trực tiếp dẫn tàu vào...

Một hành trình mới xuyên biển lại bắt đầu, từ phía Nam ra...

Đi về hướng sao Bắc Đẩu

Trong tài liệu lưu trữ của Lữ đoàn Hải quân 125 có ghi một số tên những người đầu tiên đã đi xuyên biển từ phía Nam ra tìm bắt liên lạc với Trung ương theo bức điện chỉ thị tuyệt mật ngày ấy: Bông Văn Dĩa, Tư Mau, Đặng Văn Thanh, Lê Hà...

Nhưng khi chúng tôi tìm đến nơi thì chỉ còn có thể đến nghiêng mình trước nấm mộ đồng chí Bông Văn Dĩa ở Rạch Gốc, Cà Mau và đồng chí Tư Mau ở Rạch Giá, Kiên Giang.

Những nấm mộ thì im lặng. Chúng tôi đã đến quá muộn!...

Song cũng còn may: một anh bạn chúng tôi, là nhà văn, có cho chúng tôi đọc mấy cuốn sổ tay ghi chép của anh khi anh tìm về Rạch Giá gần 10 năm trước, được gặp đồng chí Tư Mau lúc ông còn sống và được làm việc với ông.

Đó là những trang ghi chép vội, một thứ tư liệu mộc, chưa hề được nhào nặn, pha chế. Nhưng chính vì thế mà còn giữ được ít nhiều vẻ tươi nguyên của một vỉa quặng vừa được xới lên từ những lớp sâu của thời gian.

Chuyện kể của đồng chí Tư Mau, trích từ những trang ghi chép:

Đi tìm ông Hai Địa

“Tôi được biết tên anh Hai Địa tức đồng chí Bông Văn Dĩa lần đầu tiên vào năm 1957 hay 1958. Mới biết tên, nhưng ấn tượng hết sức đậm. Câu chuyện thế này: hồi bấy giờ anh Ba Duẩn, tức đồng chí Lê Duẩn, ở Kinh Năm, một con rạch nhỏ tận cuối mũi Cà Mau.

Địch đánh phá ác liệt lắm, cả vùng U Minh mênh mông là vậy mà hầu như không còn chỗ an toàn, lúc về Kinh Năm là nơi cuối cùng. Nhưng rồi Kinh Năm cũng bị lộ. Tôi ở bộ phận bảo vệ anh Ba. Anh Ba bảo:

- Lộ rồi. Phải đi thôi!

- Đi đâu bây giờ?

Anh Ba nói:

- Còn một chỗ. Còn một người có thể tin cậy: anh Hai Địa ở Rạch Gốc. Rạch Gốc là đất có thể nương náu. Đó là căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai hồi 1941. Chính Hai Địa là cơ sở của đồng chí Phan Ngọc Hiển, từng tham gia cướp chính quyền Hòn Khoai về sau bị tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo, mỗi lần chúng tôi bị địch kéo ra đánh thì Hai Địa xông ra chịu đòn thay... Phải đi tìm Hai Địa...

Vậy là chúng tôi đi. Một chiếc vỏ lãi, ba người: anh Ba, tôi và ông Hắc Hổ chèo thuyền. Chèo suốt một ngày tới Rạch Gốc. Nhưng Hai Địa không có nhà, anh ấy đang đi hoạt động trên miệt Cần Thơ. Chị Hai cho chúng tôi ăn cơm. Ngồi được một lúc thì có mấy thanh niên tới. Họ cứ nhìn chằm chằm anh Ba, rồi lân la hỏi thăm tình hình phong trào.

Anh Ba kéo tôi ra ngoài, bảo: “Thế là lộ rồi, phải đi thôi...”. Vậy là chúng tôi lại ra đi... Tức là lần đó tôi không gặp được anh Hai Địa. Nhưng lời anh Ba Duẩn thì tôi vẫn nhớ: đó là con người có thể tin cậy trong lúc khó khăn cùng cực của cách mạng.

Năm 1961 tôi làm chính trị viên tiểu đoàn bảo vệ Khu ủy Khu 9 vẫn đóng quanh quẩn vùng Bạc Liêu, Cà Mau. Tôi được biết Trung ương có chỉ thị các tỉnh ven biển miền Nam cho thuyền vượt biển ra Bắc để tính chuyện chở vũ khí về. Bấy giờ âm thầm nhưng sôi nổi lắm.

Bà Rịa cho thuyền ra, do anh Năm Đông tổ chức. Trà Vinh thì cử sáu đồng chí, mang bí danh là Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Bến Tre cho thuyền ra do anh Tư Thắng phụ trách. Khu 6 cũng cử anh Đặng Văn Thanh đi ra, theo đường Trường Sơn. Bạc Liêu cử hai thuyền, do anh Bông Văn Dĩa làm bí thư chi bộ... Các chuyến ra đều rất gian nan.

Thuyền Bà Rịa bị địch bắt ở Nha Trang, sau thoát được lại trôi dạt vào đảo Hải Nam. Thuyền Trà Vinh gặp bão lớn, phải đốn bỏ cả cột buồm, trôi dạt sang tận Hương Cảng... Riêng anh Hai Địa dạt vô bờ biển Quảng Bình, bị dân quân ta bắt, tưởng là biệt kích ngụy, đánh cho một trận và giam chặt.

Anh Hai Địa nhất định không tiết lộ nhiệm vụ, chỉ một mực yêu cầu giải về Trung ương, trực tiếp gặp anh Ba Duẩn. Mãi mới được chuyển về huyện. Lại giam. Rồi chuyển về tỉnh. Anh Hai Địa dọa đồng chí công an tỉnh: “Các đồng chí không đưa tôi đi gặp đồng chí Lê Duẩn ngay, sau này lỡ việc lớn, phải chịu trách nhiệm”. Vừa may lúc đó anh Ba Duẩn đang đi công tác ở Quảng Bình. Tỉnh ủy báo cáo:

- Có người trong Nam ra, tự xưng tên là Hai Địa, đòi gặp trực tiếp đồng chí, không chịu khai báo gì nữa.

- Ở đâu? Ở đâu?...

Vậy là hai người gặp được nhau, hai người bạn tù Côn Đảo mấy mươi năm trước. Họ ôm chầm lấy nhau...

Đầu năm 1962, tôi được lệnh đồng chí Vũ Đình Liệu gọi lên, giao nhiệm vụ:

- Đồng chí Bông Văn Dĩa ra bắt liên lạc với trung ương nay đang trên đường trở về. Đồng chí dẫn một tiểu đội xuống Rạch Gốc đón và đưa đồng chí Dĩa về đây báo cáo... Đã biết mặt Bông Văn Dĩa chưa?

Tôi bảo:

- Chưa gặp nhưng đã biết.

Khai thông con đường biển Đông

Chúng tôi xuống Rạch Gốc, chờ 10 ngày thì thuyền anh Hai Địa về. Tôi đưa anh lên ngay khu ủy báo cáo. Nghe báo cáo có các anh Ba Bường, Ba Hương, Mười Thơ, Vũ Đình Liệu. Trung ương nhận định tình hình bến bãi trong này như anh Hai Địa ra báo cáo là chưa cụ thể, chưa bảo đảm. Chưa thể đưa tàu vào.

Cần về khảo sát và ra báo cáo lại. Cần khảo sát cả các đảo ven bờ và ngoài khơi, cả đảo Trường Sa, có thể dùng một số đảo làm trạm trung chuyển, lập kho bí mật, trung ương đưa tàu vào đấy, các tỉnh miền Nam dùng thuyền nhỏ ra lấy chở về...

Khu ủy quyết định thành lập một ban chỉ huy cho công tác đặc biệt này do anh Ba Hòa làm trưởng ban, tôi làm phó, đưa một đại đội được chọn lọc kỹ xuống căn cứ ở vùng rừng Cà Mau và giao anh Hai Địa cùng tôi đi khảo sát các đảo.

Chúng tôi dùng thuyền máy Arona, đi bốn người: anh Hai Địa, tôi, anh Tranh, anh Huynh, ra cửa Rạch Gốc, xuôi xuống Hòn Chuối, tạm nấp ở đó, đến 4 giờ chiều thì bắt đầu nổ máy chạy suốt đêm, 5 giờ sáng hôm sau đến đảo Thổ Chu.

Bấy giờ là tháng năm ta, chúng tôi cập gần đảo, tạm dừng, pha trà uống. Đang uống trà, chợt giật mình thấy một chiếc ghe nhỏ từ trong bờ đảo chèo ra. Cập ghe lại hỏi thăm, biết đấy là ông Năm Lặc, người Rạch Giá, ra đây câu đồi mồi. Thổ Chu rất nhiều đồi mồi.

Ông Năm Lặc cho biết bà con miệt Rạch Giá, Hà Tiên vẫn thường ra đây bắt đồi mồi, hoặc đi đánh cá các nơi thường ghé về đây phơi cá trước khi chuyển về đất liền. Cũng có người ra đây tìm trứng nhàu...

Chúng tôi quanh quẩn ở quần đảo Thổ Chu mấy ngày, cuối cùng đi đến kết luận: không ổn! Đây không hoàn toàn là đảo hoang, người đi lại khá nhiều, phức tạp, không thể lập kho vũ khí bí mật.

Đành bỏ Thổ Chu, đi Trường Sa. Trường Sa có một số đảo hoang, nhưng nhiều nước nhòm ngó, lại càng quá xa bờ, bất tiện hơn nhiều.

Lại quay về ven vịnh Thái Lan, miệt khơi Rạch Giá, Hà Tiên. Vùng biển này có hơn trăm đảo lớn nhỏ, nay ta gọi là huyện Kiên Hải. Đảo lớn thì đông dân, đảo nhỏ không nhiều người ở nhưng quá gần bờ, người đi lại luôn. Chúng tôi lần khắp, tính đi tính lại thấy không xong... Vậy là phương án lấy các đảo làm trạm trung chuyển không thành...

Về báo cáo, khu ủy chỉ thị: vậy thì quay lại nghiên cứu các bến. Lại ra đi. Lần mò suốt dọc từ miệt bờ biển Sóc Trăng, Bạc Liêu xuống tới mũi Cà Mau, rồi từ mũi Cà Mau lần lên hướng Rạch Giá, Hà Tiên. Nắm tình hình địch, tình hình dân, dò các lạch, đêm đêm mò ra đo độ sâu lúc nước cường, lúc nước ròng.

Tìm ra cửa lý tưởng nhất là cửa Bồ Đề, lạch sâu 3,8m, tàu ta có thể vào thong thả. Các cửa Rạch Gốc, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Vàm Cái Su cạn hơn nhưng lúc nước cường vẫn vào được, lại có lạch kín, rừng đước dày, có thể đào ụ giấu tàu và lập kho lớn chứa vũ khí...

Sau chuyến khảo sát này, khu ủy quyết định cử hai thuyền ra báo cáo trung ương, một chiếc do anh Hai Địa phụ trách xuất phát tại cửa Rạch Gốc ngày 24-7-1962, một chiếc tôi phụ trách xuất phát sau hai ngày. Đi hai thuyền là đề phòng mất một vẫn còn một.

Anh Hai Địa đi trót lọt, đến cửa Việt ngày 29-7.

Còn tôi đến ngang Đà Nẵng cách bờ 50km thì bị tàu địch rượt đuổi suốt một ngày, đến 10 giờ đêm 30-7 thì bị chúng bắt...

Bị giam ở Đà Nẵng một năm trường. Đến tháng 6-1963 mới được tha. Lần về tới chiến khu Bạc Liêu thì anh Hai Địa đã chở được chuyến tàu gần 50 tấn súng đạn về bến Rạch Gốc.

Con đường biển Đông đã chính thức được khai thông.

Và cả một mạng lưới các bến liên hoàn từ Bà Rịa dài suốt đến Cà Mau đã được hình thành. Riêng vùng Rạch Gốc - quê anh Hai Địa - đã được tổ chức thành một khu căn cứ hoàn chỉnh chặt chẽ”.

Những chuyến tàu mạo hiểm đã xẻ dọc biển Đông, đưa súng đạn cho người đang cần súng đạn để chiến đấu và tự vệ. Tiếng miền Nam gọi khẩn thiết đã giục giã ra khơi những con tàu lớn hơn. Và một người lính đã được chọn lựa cho nhiệm vụ tuyệt mật này.

Một câu chuyện lạ lùng và cảm động…

Câu chuyện của người lính già


Từ Hải Phòng, qua phà Bính, rẽ về tay trái khoảng mươi cây số sẽ gặp một vùng đất có dáng dấp trung du: những cụm đồi nối nhau thoai thoải, cao dần về hướng đông bắc.

Làng xóm nằm ven đồi, thượng gia hạ điền: trên đồi là nhà, có vườn, dưới chân là ruộng. Len lỏi vào các xóm làng chen chúc ấy, thỉnh thoảng có thể gặp dấu vết những căn hầm lớn khoét sâu vào sườn đồi.

Có hầm đã sập, nhưng cũng có hầm còn khá nguyên vẹn, gỡ đi vài lớp rêu phong xanh rì có chỗ còn có thể nhận ra cả dấu xẻng công binh xén sâu vào lớp đất bazan đỏ sậm: chính nơi đây một thời từng là căn cứ địa, là sở chỉ huy của một đơn vị thường được những người ít nhiều có liên quan nhắc đến một cách tò mò và thán phục: đơn vị “những con tàu không số”. Còn những người trong cuộc thì biết rõ tên tuổi của nó: Lữ đoàn Hải quân 125.

Người thủy thủ già ở lại

Những người lính của cái lữ đoàn bí mật huyền thoại một thời đó, những sĩ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, những thuyền trưởng, thủy thủ, báo vụ viên, thợ máy... ngày ấy từ khắp đất nước tập hợp về đây, nay đều đã đi xa.

Người đã hy sinh, mãi mãi biệt tích trên biển Đông, người đã chuyển ngành, người đã về hưu... Duy còn một người vẫn ở lại đây. Một người lính thủy già, quê tận Cà Ná, tít tận miền Phan Thiết trong cực Nam Trung bộ xa xôi: anh Đặng Văn Thanh.

Thường vẫn vậy trong những trường hợp này: có một mối tình sâu đậm nào đó đã giữ chân người lính bôn ba lại nơi làng quê hẻo lánh này. Trường hợp Đặng Văn Thanh chính là như vậy. Sau những chuyến mạo hiểm trên biển lớn, anh thường trở về nơi này, chỉ huy sở của các con tàu không số, báo cáo công tác hay nghỉ ngơi lấy sức dăm ngày.

Chính trong một căn hầm chỉ huy khoét sâu vào lòng đồi nay đã sạt lở gần hết, anh đã gặp một chị hội trưởng phụ nữ xã có đôi mắt lá răm sắc dài. Hỏi thăm mới biết đó là một người vợ liệt sĩ. Họ quen nhau, ân cần và kín đáo chăm sóc cho nhau. Chị thấy bồn chồn lo lắng mỗi lần anh từ giã ra đi, lao ra biển khơi mịt mùng. Chị hao gầy đi những ngày chờ đợi.

Và như sống lại, tươi tắn, tinh khôi, đôi mắt lá răm cố giấu một niềm hạnh phúc không kìm nổi mỗi lần anh trở về... Cho đến ngày cuối chiến tranh, họ trở thành vợ chồng...

Bây giờ thì người thủy thủ già đã thật sự trở thành một bác nông dân chính cống. Nhà anh chị nằm ven sườn đồi. Trước sân là cái giàn mướp sai quả, giàn mướp không phải đan bằng tre mà là một tấm lưới cũ giăng giữa mấy cây cột chống bằng sắt gỉ. Phía ngoài sân là chiếc giếng rất sâu, gàu được kéo bằng ròng rọc hẳn lấy được về từ một chiếc tàu cũ nào đó. Cạnh đấy là ao cá, anh Thanh bảo mỗi mùa thu được hàng 5-6 tạ cá mè...

Chúng tôi ngồi với nhau giữa sân, trên chiếc nong lớn, quanh mâm rượu có một chai cuốc lủi to bự và mấy con cá khô nướng làm mồi chị Thanh đã chu đáo dọn sẵn cho chúng tôi. Anh Thanh nói:

- ...Sau hiệp định Genève 1954, tôi không đi tập kết mà được lệnh ở lại nằm vùng hoạt động. Rồi tôi được giao nhiệm vụ giả đi đánh cá, điều tra kỹ vùng Mũi Đèn và về khu ủy báo cáo cụ thể tình hình sông nước, bến bãi, tình hình địch bố phòng tuần tra trên đất trên biển ra sao, tình hình dân. Làm xong thì có liên lạc đến, dẫn lên rừng, về chỗ anh Lê, anh Hiền. Đồng chí liên lạc dặn trước khi đi phải sắm sẵn nilông, võng dù, hănggô.

Tôi cũng nghĩ chắc lên rừng thì phải có đủ những thứ đó chứ không ngờ... Lên đến nơi, ở trạm giao liên vài ngày thì một buổi chiều thấy anh Lê và anh Hiền ra, tay xách mấy chai rượu cần và một hănggô cơm nếp. Hai anh ở lại suốt đêm ấy rỉ rả nói chuyện. Anh Hiền bảo:

- Anh Thanh mấy năm nay vất vả, sức yếu lắm rồi, mắt mờ, tóc rụng hết. Nay khu ủy quyết định Thanh phải ra Bắc nghỉ một thời gian, chữa bệnh, học hành, rồi sẽ trở về phục vụ. Thanh cứ đi, đừng suy nghĩ gì. Cách mạng miền Nam còn dài. Cứ đi, rồi sẽ trở về, trên có cho ít súng đạn, tìm cách mang về cho anh em trong này càng tốt...

Khu ủy giao cho Thanh cái phong bì này, phải giữ thật kỹ, trường hợp bất trắc nhất thiết không để rơi vào tay giặc, dù hi sinh cũng phải bảo đảm thủ tiêu trước khi ngã xuống. Ra đến Hà Nội chỉ được giao tận tay một người là đồng chí Võ Nguyên Giáp.

Hai nhiệm vụ từ đại tướng Võ Nguyên Giáp

Tôi đi đường Trường Sơn gần tám tháng mới ra tới miền Bắc, tới Quảng Bình thì có xe con đón thẳng về Hà Nội. Lúc ở 105 Quán Thánh, lúc ở Ban Thống nhất trung ương, loanh quanh luẩn quẩn chẳng biết làm gì, không được ra đường, chỉ ăn uống bồi dưỡng, thỉnh thoảng xe đưa đi khám bệnh rồi đưa về, lại loay hoay một mình trong phòng.

Đó là khoảng cuối năm 1961... Cho đến một bữa chiều, tôi đang ở Ban Thống nhất thì có người đưa xe đến đón bảo đi có việc. Xe chạy quanh co một lúc thì đến một ngôi nhà, sau này tôi mới biết là số nhà 36 Lý Nam Đế. Người dẫn đường đưa tôi lên tầng hai, vào một căn phòng rộng, có một chiếc bàn lớn và bốn cái ghế bành.

Trên bàn bày sẵn bánh kẹo, bia, nước ngọt. Một người mặc quân phục nhưng không đeo quân hàm bảo: “Đồng chí ngồi nghỉ, chờ một lúc”.

Vài phút sau cửa phòng mở, một người bước vào, chắc đậm, quần kaki, áo lụa ba túi. Tôi đứng dậy nhưng không biết là ai. Người mặc quân phục - sau này tôi biết là sĩ quan tham mưu - nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đây là đồng chí Đặng Văn Thanh, vừa ở Khu 6 ra.

Rồi anh quay lại phía tôi:

- Đây là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đồng chí Thanh chào đại tướng đi...

Tôi sững sờ.

Đại tướng bước lại bắt tay tôi, rồi ôm lấy cả hai vai tôi:

- Đồng chí Thanh ngồi xuống đi. Nào, đã lâu lắm tôi không được nghe giọng nói Phan Thiết. Nào ngồi xuống. Và nói chuyện cho chúng tôi nghe đi.

Đại tướng tự tay bóc thuốc và rót nước cho tôi:

- Đồng chí Thanh đi đường mất mấy tháng? Sức khỏe bây giờ thế nào? Đã đi khám bệnh chưa?... Anh Lê, anh Hiền có khỏe không?

Tôi đứng dậy:

- Thưa đại tướng, có cái phong bì này anh Hiền dặn tôi chỉ được đưa tận tay đại tướng...

Ông cầm phong bì nhưng đặt xuống bàn.

- Bây giờ đồng chí Thanh kể chuyện cho chúng tôi nghe đã. Tình hình trong ấy thế nào? Bà con ta sống thế nào? Địch hoạt động thế nào? Nhất là nói kỹ tình hình ven biển từ Khánh Hòa vào tới Mũi Đèn. Nói thật cụ thể.

Người sĩ quan tham mưu dẹp mấy cái cốc và trải ra trên mặt bàn một tấm bản đồ lớn. Đại tướng đưa cho tôi một cây bút chì vót nhọn:

- Đây, đồng chí báo cáo đi, chỉ rõ từng chỗ trên bản đồ...

Tôi cầm cây bút, đứng sững trước tấm bản đồ rất lâu. Người sĩ quan tham mưu nhắc:

- Đồng chí Thanh bình tĩnh nói đi.

Tôi quay nhìn đại tướng, lắp bắp mãi mới nói được mấy tiếng:

- Báo cáo... Báo cáo đại tướng... Tôi... tôi không biết chữ...

Căn phòng bỗng lặng ngắt.

Các anh biết không, lúc đó tôi thấy mình có lỗi vô cùng. Đại tướng cũng đứng lặng hồi lâu. Rồi ông nói với người sĩ quan tham mưu, giọng trầm xuống hẳn:

- Anh em ta trong ấy vậy đó...

Ông cầm lấy cây bút chì từ tay tôi, kéo tôi lại cạnh ông:

- Bây giờ thế này nhé, tôi sẽ chỉ từng chỗ trên bản đồ và đồng chí sẽ kể cho chúng tôi biết rõ tình hình từng nơi. Đây này, cái vạch màu đỏ này là đường số 1. Đây là Phan Rang. Đây là Phan Thiết. Còn chỗ này, cái mũi nhọn này, Thanh nhìn rõ không, là Mũi Đèn. Còn đây là Vũng Găng. Đây là Cà Ná...

Như vậy đấy, đêm ấy đại tướng ở lại với tôi rất khuya. Và, các anh biết không, tôi đã kể lại với đại tướng không phải chỉ tình hình các vùng tôi từng biết, từng sống, từng hoạt động. Tôi đã kể với đại tướng tất cả cuộc đời tôi. Từ ngày là thằng bé mồ côi cha mẹ, 8 tuổi đã làm nghề lặn cá ở biển Cà Ná...

Đại tướng ngồi nghe, thỉnh thoảng mới nhắc một câu:

- Thanh uống nước đi đã.

... Cho đến khi người cán bộ tham mưu rời quyển sổ ghi chép đứng dậy nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đã 1 giờ sáng...

Đại tướng cũng đứng dậy. Ông nói:

- Cám ơn, cám ơn đồng chí Thanh...

Lần này ông không bắt tay tôi mà ôm chặt cả hai vai tôi. Ông nói:

- Bây giờ đồng chí Thanh có hai nhiệm vụ, tôi giao nhé, phải làm kỳ được. Một: chữa bệnh, bồi dưỡng cho thật khỏe. Tóc rụng hết cả rồi đây này... Hai: phải đi học. Học chữ và học chuyên môn. Khi nào hoàn thành nhiệm vụ, báo cáo cho tôi biết... Thôi, về đi. Đêm nay ngủ thật ngon...

Vậy là anh Đặng Văn Thanh đi học. Lớp học chỉ một thầy một trò. Sau ba tháng biết đọc biết viết thì được chuyển sang học hàng hải, la bàn..

Một nhiệm vụ mới đang chờ đợi anh.

Những con tàu không số
Xong cái đận học hành ấy, xe lại chở anh Đặng Văn Thanh về 83 Lý Nam Đế. Anh Thanh kể: “Nằm chờ ở Lý Nam Đế khoảng một tuần, một hôm anh Đoàn Hồng Phước cho gọi tôi lên cùng 12 người nữa, tất cả đều là đảng viên, toàn người Khu 5, Khu 8 và Khu 9, đều lớn tuổi hơn tôi.

Tàu không số

Anh Phước nói:

- Đã đến lúc chuẩn bị lên đường. 13 đồng chí thành một đội, một chi bộ. Đồng chí Thanh là chính trị viên, bí thư chi bộ. Đồng chí Thêm là thuyền trưởng. Đồng chí Năm là máy trưởng.

Ngày hôm sau có một đồng chí người gầy, cao, về sau tôi mới biết là đồng chí Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm Ban Thống nhất trung ương, đến liên hoan chia tay, rồi chúng tôi được chở xuống Đồ Sơn, vào thẳng khu vực cấm ở Pagodon và được nhận tàu.

Người ta gọi đơn vị chúng tôi là “đơn vị tàu không số”. Đó là một cách gọi để nhấn mạnh tính chất bí mật của đơn vị này, công tác này. Thật ra thì các tàu đều có số hiệu chính thức riêng của mình, ghi rõ trong sổ sách mật của đơn vị nhưng không ghi trên thân tàu. Còn trên thân tàu thì ghi số hiệu giả, thường xuyên thay đổi. Chúng tôi mang theo đầy đủ các loại sơn, đến mỗi vùng biển lại sơn lại số hiệu giống như các con tàu đánh cá ở những vùng biển ấy.

Riêng về mục tàu bè của chúng tôi cũng là cả một câu chuyện lịch sử khá dài. Chiếc đầu tiên chở được 15 tấn vũ khí vào Nam chính là chiếc ghe lưới Bạc Liêu do đồng chí Bông Văn Dĩa mang ra trong chuyến dò tìm đường ra Bắc báo cáo. Chiếc ấy đồng chí Dĩa để lại ở Quảng Bình, đã hư nát nhiều.

Bấy giờ còn một chiếc ghe lưới tương tự như vậy nữa do các anh ở Trà Vinh đem ra. Ta quyết định sửa chữa lại để đi những chuyến mở đường đầu tiên. Hải quân đi thuê sửa chữa thì dễ lộ nên ta phải nhờ đồn công an vũ trang Quảng Bình đứng ra thuê công trường gỗ Quảng Bình sửa chữa phần vỏ và Nhà máy cơ khí 6-1 Đồng Hới làm phần máy.

Chắc anh em công nhân công trường gỗ Quảng Bình và Nhà máy cơ khí 6-1 Đồng Hới trong khi làm công việc này cũng nghĩ là công an vũ trang cần một số ghe lưới kiểu miền Nam để tuần tra vùng biển giới tuyến, không hề ngờ đến con đường đi và mục đích thật của nó.

Trong khi đó xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng được lệnh gấp rút đóng bốn tàu gỗ lớn hơn, trọng tải trên 30 tấn, có buồm kết hợp với máy đẩy, đặc biệt máy đẩy phải là loại máy đẩy của Mỹ chứ không dùng loại của xã hội chủ nghĩa.

Vỏ tàu toàn gỗ tốt: sến, trai, dền dền, chịu đựng được sóng to giữa biển lớn; còn máy đẩy thì anh em đi sục tìm khắp nơi, thậm chí có cả chỉ thị của thủ tướng chính phủ huy động tất cả cơ sở, cuối cùng mới tìm được một máy Grey Marin của Mỹ 220 sức ngựa, lắp cho một chiếc. Ba chiếc còn lại đành phải lắp máy Suda của Tiệp Khắc, có dáng dấp hơi giống máy các nước phương Tây sản xuất.

Chiếc tàu gỗ thứ nhất do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy xuất phát từ bến Đồ Sơn ngày 8-4-1962, đến bến Đầm Chim, Cà Mau ngày 18-4-1962.

Như vậy tàu chúng tôi được nhận là chiếc tàu gỗ thứ hai.

Chúng tôi 13 anh em đến Pagodon Đồ Sơn, xuống xem tàu rồi lên bờ nghỉ ngơi, tiếp tục ăn uống bồi dưỡng, không phải làm gì cả. Đêm đến mới bắt đầu chuyển hàng xuống tàu, nhưng không phải chúng tôi chuyển mà toàn là cán bộ, khoảng hơn chục người, cấp đại tá, có cả tướng. Chuyển suốt một đêm mới được hơn nửa tàu.

Mờ sáng tàu phải chạy vào núp kín trong một gành đá, tối hôm sau mới trở lại bến, lại tiếp tục chuyển. Ngày hôm sau nữa, đúng 8g tối chúng tôi xuất phát.

Ra khơi mùa biển động

Cái nghề này là vậy, chúng tôi ra đi bao giờ cũng đúng giữa mùa gió đông bắc, như vậy thuận gió thuận nước, lại biển động sóng lớn, việc tuần tra của địch trên biển có phần sơ hở hơn.

Chúng tôi nhằm hướng đảo Hải Nam chạy thẳng ra, càng ra khơi sóng càng to, gió càng lớn. Anh em chúng tôi toàn là dân chài, làm ăn trên biển đã dạn dày, vậy mà lần này say sóng nhừ tử gần hết, mửa mật xanh mật vàng, có anh còn mửa ra cả máu.

Ra khỏi đảo Hải Nam 100 hải lý thì máy hỏng. Loay hoay sửa mãi, được một lúc lại hỏng. Tàu rất khẳm, chúng tôi họp cấp ủy, bàn đi tính lại mãi, cuối cùng quyết định quay trở lại... Mất tất cả 22 ngày lênh đênh mới trở lại được Đồ Sơn. Anh em rất buồn. Trên xuống động viên và rút kinh nghiệm, sửa chữa máy móc.

Rồi chúng tôi lại ra đi. Vẫn sóng to gió lớn đến nỗi không nấu được cơm, chúng tôi phải ăn bánh đa thay cơm. Hai ngày hai đêm, vừa qua khỏi vĩ tuyến 17 thì máy vô tuyến điện bị hỏng. Chúng tôi họp bàn quyết định không trở lại nữa, cứ vượt sóng mà đi. Sóng lớn phủ hai bên, tàu chúng tôi trông như một chiếc tàu ngầm...

Ngày thứ tư thấy Nha Trang. Đến đêm sau thì thấy có một ngọn đèn pha, cách chừng 8 hải lý. Anh em bảo là đèn pha Kê Gà, nhưng tôi quan sát kỹ, khẳng định là pha Vũng Tàu. Pha Vũng Tàu chớp ba, từ ngày ở nhà tôi đã thuộc. Vậy là phải nhanh chóng chuyển hướng ngay...

Đến 11g trưa thì chúng tôi bắt được bờ, một dải xanh mờ nhạt ở chân trời phía tây. 2g chiều, một thủy thủ quê Bến Tre nhận ra được cửa Gành Vàng, tức là trên Rạch Gốc chừng 10 hải lý. Mừng quá, chúng tôi cứ bắt bờ xuôi dần xuống. Tới ngang Rạch Gốc thì kéo cờ ám hiệu: một cờ đen, một cờ trắng, hình vuông, theo kiểu cờ ghe đánh cá của đồng bào. Một lúc sau có ba ghe máy cũng kiểu cờ đen trắng từ trong bờ chạy ra. Tất cả chúng tôi đều ùa lên boong tàu, reo to:

- Ta đây rồi! Ta đây rồi!

Ba chiếc ghe máy dẫn tàu chúng tôi vào cửa, theo những đường lạch quanh co và luồn thẳng vào rạch có vòm đước kín bưng. Tôi chưa kịp bước lên bờ thì một người thấp đậm, béo khỏe, mặt tròn chạy thẳng xuống tàu ôm chầm lấy tôi:

- Hoan hô! Hoan hô!

Đấy là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Bông Văn Dĩa.

Nguyên tắc bí mật

Đồng chí Bông Văn Dĩa lúc này đã về phụ trách bến, cùng với đồng chí Tư Mau. Dần dà tôi mới hiểu ra: các anh đã tổ chức cả một hệ thống bến đón liên hoàn từ mạn Trà Vinh, Sóc Trăng xuống đến tận mũi Cà Mau, chặt chẽ, qui mô do một đơn vị lớn lấy tên là Đoàn 962 phụ trách.

Anh Dĩa kéo chúng tôi lên bờ, khui bia, rượu Rồng Xanh liên hoan mừng thắng lợi, sò huyết Cà Mau ngon nổi tiếng cứ luộc từng thúng mà ăn.

Chúng tôi nghỉ lại bến gần một tháng. Bến được tổ chức rất qui củ, có khu nghỉ riêng cho thủy thủ, có bệnh xá, kho vũ khí, kho lương thực, có bảo vệ vòng trong vòng ngoài vững vàng. Lúc này địch mở chiến dịch “Tình thương” lùng ráp vũng Đất Mũi. Khu ủy tăng cường một tiểu đoàn xuống, đánh một số trận, giữ vững khu căn cứ. Tiểu đoàn này được lệnh phải bảo vệ chiếc tàu của chúng tôi bằng bất cứ giá nào, nhất quyết không cho địch đến gần và phát hiện.

Chúng tôi sống rất thoải mái, chỉ có hai điều hạn chế: thiếu nước ngọt (chúng tôi là thủy thủ từ miền Bắc vào được ưu tiên phát mỗi ngày 10 lít nước ngọt, còn anh em tại chỗ chỉ được 1 lít). Và nguyên tắc bí mật rất nghiêm. Tuyệt đối không ai được bước chân ra khỏi khu căn cứ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi người chỉ được biết công việc của mình, chỉ ở trong khu vực của mình, không được lân la sang các khu vực khác.

Bấy giờ cả một vùng rừng khá rộng từ Rạch Gốc đến Đất Mũi ở cuối chót Năm Căn thực tế thành một khu cấm địa hết sức nghiêm ngặt, là một khu vực bến đón và kho vũ khí bí mật lớn của ta. Hình như kẻ địch có đánh hơi, nghi ngờ, nhưng không tài nào mon men đến được.

Dân trong vùng này thưa và toàn là cơ sở lâu năm, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Nghe nói đôi khi có người ở bên ngoài vô tình đi lọt vào vùng này liền bị lưới canh phòng bí mật của anh em giữ lại và từ đó bắt buộc phải ở lại đây, phân công phục vụ trong một bộ phận nào đấy cho đến hết chiến tranh.

Cuộc sống trong khu căn cứ này nghiêm ngặt là thế, nhưng cũng không phải là khô khan đâu. Vẫn rất sôi nổi và vui. Thậm chí còn có cả chuyện yêu đương, cưới vợ, gả chồng, sinh con đẻ cái nữa. Một thế giới kỳ lạ trong rừng đước âm u, bí hiểm...”.

Anh Thanh còn đi nhiều chuyến nữa, vào Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa… không phải bằng tàu gỗ mà bằng những con tàu sắt trọng tải 100 tấn. Trên những con tàu không số ấy, cậu bé mồ côi thất học ngày nào đã trở thành anh hùng quân đội.

Cũng như anh, ở Trà Vinh có một người cũng được tuyên dương anh hùng. Cuộc chiến đấu trên biển của thuyền trưởng Hồ Đức Thắng sách đã ghi; nhưng sử sách nào sẽ ghi lại cuộc chiến đấu âm thầm của người vợ, chiến đấu trong đơn độc và tủi nhục…

Phía sau người anh hùng


Ở Trà Vinh có một thuyền trưởng từng chiến đấu trên biển Đông đã được tuyên dương anh hùng quân đội, nay cũng đã nghỉ hưu: anh Ba Thắng, tức Hồ Đức Thắng. Theo chỉ dẫn của các đồng chí ở đoàn 962, tức đơn vị hải quân nay đóng ở Trà Nóc, Cần Thơ, chúng tôi tìm đến anh Ba Thắng.

Cuộc chiến đấu trên biển của người anh hùng

Anh Ba Thắng thuộc lớp người đầu tiên mở đường biển Đông.

Hồi 1960-1961, khi ở Bà Rịa bác Năm Đông và má Mười Rìu xuôi ngược tổ chức bến bí mật trong lòng giặc, ở Cà Mau anh Hai Địa và anh Tư Mau rong ruổi đi nghiên cứu hàng trăm hòn đảo từ Trường Sa qua Kiên Hải đến Thổ Chu, từ Ninh Thuận Đặng Văn Thanh lội bộ vượt Trường Sơn ra Hà Nội... thì Tỉnh ủy Trà Vinh cũng gửi một thuyền vượt biển bí mật ra bắt liên lạc với trung ương.

Thuyền Trà Vinh có sáu người, lấy tên theo một khẩu hiệu, một quyết tâm lớn: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Ba Thắng chính là người thứ năm trong số này.

Thuyền Trà Vinh vượt biển ra Bắc, gặp bão, trôi dạt sang tận Macau, rồi được trả về Hà Nội qua cửa khẩu Bằng Tường. Cũng như nhiều anh em khác từ chiến trường ra, Ba Thắng được cho đi học, bắt đầu từ i tờ, rồi học hàng hải, cuối cùng tập trung về đoàn tàu không số bắt đầu tham gia cuộc chiến đấu lớn trên biển.

Ba Thắng đã đi trước sau trên 20 chuyến, hầu hết các bến bí mật ở miền Nam thời ấy anh đều đặt chân đến: Rạch Gốc, Gành Hào, Bồ Đề, Hố Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Kinh Năm... Gay go, nguy hiểm nhất là các bến ở miền Trung: Lộ Diêu, Phổ An, Phổ Quang, Sa Kỳ, Hòn Hèo, Hòn Khói, Vũng Rô... Sử dụng đủ các loại tàu: tàu gỗ do xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng cung cấp, tàu sắt Quảng Châu, tàu cao tốc những năm về sau này.

Khi con đường vận chuyển trên biển bị lộ, bọn Mỹ đã triển khai một bộ phận hải quân và máy bay thuộc hạm đội 7 phối hợp với hải quân ngụy ráo riết ngăn chặn, tàu ta không thể đi theo địa văn, tức là đi tương đối gần bờ, lấy các rặng núi trong đất liền làm chuẩn để định hướng nữa, mà phải đi vòng ra rất xa, sang tận sát quần đảo Philippines, vòng xuống đến vùng Palawan sát hải phận Indonesia, từ đó men theo eo biển Malacca ngược lên vịnh Thái Lan, và bất ngờ dùng tốc độ cao đâm thẳng vào vùng mũi Cà Mau...

Đã có hàng chục trận phải đánh nhau với tàu địch trên biển, cho nổ tàu phi tang, nhảy xuống biển mà bơi, hoặc cho tàu đâm thẳng luôn vào bờ, vừa đánh địch vừa đốt tàu, rồi tìm đường về căn cứ...

Suốt đêm chúng tôi mới đến và sáng hôm sau anh Ba Thắng kể cho chúng tôi nghe tất cả những chuyện ấy. Rồi anh dẫn chúng tôi ra bến, chính cái bến ngày xưa tàu ta từng bí mật đổ vũ khí vào.

Buổi tối chúng tôi trở về nhà anh Ba Thắng. Chị Ba nấu cháo gà đãi chúng tôi. Và trong khi chúng tôi ngồi uống rượu, chị lui cui dọn dẹp, cho heo ăn, đập xơ dừa một lúc rồi chị đi nghỉ sớm.

Anh Ba Thắng rủ chúng tôi bắc ghế ra sân ngồi hóng mát. Đêm ở đây yên tĩnh đến có cảm giác như ta đã tách hẳn ra khỏi thế giới tất tả chung quanh. Sự yên tĩnh cho ta cái thanh thản trầm lắng và dễ khiến con người trở nên suy tư.

Anh Ba Thắng đột ngột nói:

- Suốt ngày hôm nay tôi đã kể các anh nghe cuộc chiến đấu trên biển của chúng tôi. Bây giờ tôi sẽ kể với các anh một cuộc chiến đấu khác, chắc không ghi trong bất cứ sổ sách nào đâu...

Cuộc chiến đấu không có tiếng súng

... Hồi 1961, lệnh rút sáu anh em chúng tôi để vượt biển ra Bắc là lệnh trực tiếp của tỉnh ủy, hết sức bí mật, ngay trong tỉnh ủy cũng chỉ có một, hai đồng chí thường vụ trực tiếp lo công việc này biết, còn huyện ủy, xã ủy, chi bộ địa phương đều hoàn toàn không hay biết. Chỉ nghe nói là mấy anh em tôi được rút đi thoát ly, còn đi đâu, làm gì không ai rõ. Vợ tôi lúc đó đã là đảng viên trong chi ủy mà tôi cũng không dám hé răng tâm sự chút gì...

Tôi ra Bắc, rồi đi tàu bí mật trở về khắp các bến, như tôi đã kể các anh nghe. Đến chuyến thứ năm mới được trở về đúng bến Trà Vinh này. Tới bến cất hàng, giấu tàu xong xuôi, chúng tôi rút vào rừng nghỉ một tuần.

Ngày tôi ra đi vợ chồng tôi mới có một mặt con. Vợ tôi là chi ủy viên, hoạt động bí mật trong ấp chiến lược, nhớ và lo lắm. Nhưng tuyệt đối không hề dám nghĩ tới chuyện thư từ liên lạc, đừng nói gì đến về thăm, gặp mặt...

Đến chuyến thứ chín, cuối năm 1964, tôi lại được trở về bến Trà Vinh. Lần này đồng chí phụ trách bến gọi tôi lên, hỏi:

- Có muốn gặp vợ không?

Tôi chắc anh ấy thử mình nên trả lời:

- Không dám nghĩ tới chuyện đó đâu. Tùy tổ chức thôi.

Ai dè các anh thương, lần này quyết bố trí cho vợ chồng tôi gặp nhau thật.

Công phu lắm. Phải phái một chị giao liên hợp pháp về tận làng tôi, nói với vợ tôi là trên rút đi công tác đặc biệt, công tác gì không được biết. Vợ tôi phải giả đi buôn ở Cần Thơ. Giao liên dẫn đi vòng vo mấy ngày, chuyển từ giao liên này qua giao liên khác mấy lần, cuối cùng mới đến bến.

Anh em rất chu đáo. Điều kiện ở bến khó khăn vậy mà các anh vẫn bố trí cho vợ chồng tôi một “căn lều hạnh phúc” trong một khu rừng kín. Ở với nhau được hai ngày... Rồi vợ tôi lại vòng lên Cần Thơ, mua một ít hàng linh tinh trước khi trở về nhà. Còn tôi vài ngày sau xuống tàu...

Từ đó cho đến hết chiến tranh tôi còn đi nhiều chuyến, nhưng toàn đi Cà Mau và Khu 5, không còn chuyến nào được trở lại Trà Vinh. Cũng không hề nhận được tin tức gì của vợ con nữa...
Tôi thiệt là cái thằng vô tâm các anh ạ. Nhớ thương vợ con thì luôn canh cánh bên lòng, nhưng không hề đoán nghĩ được những gì sẽ xảy ra với vợ tôi sau lần chúng tôi gặp nhau trong rừng đó...

Mãi đến sau 1975 giải phóng miền Nam rồi tôi về thăm nhà mới biết: thì ra lần ấy gặp nhau trở về vợ tôi có thai. Cơ sự bỗng trở nên hết sức phức tạp. Việc tôi ra Bắc, rồi đi tàu biển chở vũ khí về, địa phương, huyện, xã, tỉnh, chi bộ, bà con làng xóm tuyệt đối không ai biết. Việc tôi có trở về bến Trà Vinh càng không ai biết.

Đối với mọi người, kể cả các đồng chí trong đảng bộ địa phương, cả với cha mẹ tôi, vợ tôi là vợ của một chiến sĩ quân giải phóng đang đánh Mỹ ở đâu đó. Vậy mà bây giờ, đùng một cái, người đàn bà ấy lại có chửa! Với ai? Chỉ có thể là chửa hoang!

Lúc đầu vợ tôi còn lúng túng che giấu, hi vọng một cách hão huyền biết đâu bất ngờ tôi có thể công khai trở về. Nhưng rồi bụng càng ngày càng to, không thể che giấu được nữa. Cha mẹ tôi khinh bỉ và đau khổ. Chi bộ gọi lên kiểm điểm. Nói với chi bộ thế nào bây giờ? Cuối cùng cô ấy khai liều: lâu nay đi buôn ở Cần Thơ, lỡ có dan díu với một người ra cơ sự này!

Cha mẹ la chửi, chi bộ lên án đành cắn răng chịu đựng. Chi bộ quyết định kỷ luật: khai trừ, đuổi ra khỏi Đảng, đình chỉ công tác. Các anh có hiểu được một người đảng viên sống trong lòng địch mà bỗng mất hết đảng, mất hết cả gia đình, xóm giềng, lủi thủi một mình ôm cái bụng chửa, rồi sinh con, nuôi con một mình chống lại với tất cả... là thế nào không? Vợ tôi sinh được một đứa con gái, giọt máu của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi không cho nó lấy họ tôi.

Vậy đó, kéo dài hơn 10 năm trời. Cho đến ngày giải phóng miền Nam. Và tôi trở về...

Anh Ba Thắng ngừng lời. Tất cả chúng tôi đều im lặng.

Chúng tôi tìm về bến Trà Vinh để gặp một người anh hùng và nghe những sự tích anh hùng của anh trên biển Đông, những trận chiến đấu độc đảm, dữ dội, ác liệt của anh giữa trùng khơi sóng gió. Nhưng hóa ra lại gặp một con người khác, một sự tích khác. Một sự tích không hề có súng nổ, có sóng to, gió lớn biển khơi, thậm chí một sự tích gần như không lời.

Một người đàn bà âm thầm chịu đựng tất cả, hoàn toàn cô đơn, dằng dặc hơn 10 năm trời, để khư khư cắn răng giữ kín một điều ngày ấy vô cùng thiêng liêng: bí mật của con đường biển Đông.

Đặng Văn Thanh và chú Năm Sao từng kiên gan chịu đựng trên con tàu mắc cạn, sẵn sàng hi sinh nổ tung tan xác cùng con tàu, phi tang tất cả cũng là để gìn giữ cho được điều bí mật sinh tử ấy. Họ đã trụ vững suốt một ngày.

Đặng Văn Thanh trở thành anh hùng quân đội.

Còn chị Ba ở tận cuối Trà Vinh, chị đã trụ vững hơn 10 năm. Và trong cô đơn tuyệt đối.
Sử sách nào sẽ ghi lại sự tích này?

Một vùng cát trắng, lơ thơ bông cỏ lông chông khô cháy. Người đàn bà ấy đi trên cát, nắm tay một đứa bé. Chị Ba Thắng và đứa con gái bé bỏng của chị. Lủi thủi, cam chịu hai mẹ con... Có ai ngờ chủ nghĩa anh hùng có khi lại có diện mạo lầm lũi như thế đó...

Những con tàu không số tăng dần theo năm tháng. Năm 1964, 1965 mỗi tuần đều có những chuyến ra khơi. Từ biển Bắc, hàng ngàn tấn súng đạn theo những chuyến đi mạo hiểm ấy đã đến với các bến đợi ở miền Trung, miền Nam.

Con đường chiến lược có nguy cơ bị rò rỉ ngay từ điểm xuất phát. Và nỗi lo rình rập mỗi ngày…

Bí mật một con đường

Việc lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự này có mặt ở Lữ đoàn 125 khoảng năm 1964 là một dấu hiệu cho thấy đến lúc này tuyến vận chuyển bí mật trên biển Bắc - Nam đã phát triển khá lớn: số anh em từ các tỉnh trong Nam vượt biển ra và anh em miền Nam tập kết lấy từ các đơn vị trong và ngoài quân đội về không còn đủ nữa.

Đơn vị đã phải tuyển thêm ngày càng đông những chiến sĩ hải quân quê miền Bắc. Tất nhiên chọn lựa rất kỹ: những người gan dạ, vững chắc, tin cậy nhất. Nguyễn Long An nói:

- Lúc tôi về đơn vị, con đường trên biển của ta có thể nói đã khá tấp nập. Tôi xin nói vài con số: Năm 1962 tổng số tàu đi là năm chiếc, chở được cho miền Nam 810 tấn vũ khí. Năm 1963 tổng số tàu đi 22 chiếc, chở được 1.318 tấn. Năm 1964 tổng số tàu đi 49 chiếc, chở được 2.971 tấn và 113 khách. Riêng hai tháng đầu năm 1965 tổng số tàu đi tám chiếc, chở 408 tấn và 23 khách.

Tức là đến cuối năm 1964 đầu 1965, gần như tuần nào cũng có tàu xuất phát từ Đồ Sơn, Hòn Gai, Hạ Long, Bái Tử Long, Móng Cái, Tiên Yên, nhằm vào các bến Khu 5 và Nam bộ: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá. Hệ thống bến đi và bến đến cũng đều mở rất rộng.

Ngoài súng đạn, tàu còn chở cả “khách”. Khách đây là những đồng chí cán bộ thường ở cấp khá cao, cần đi công tác khẩn vào miền Nam hoặc từ các chiến trường miền Nam ra trung ương báo cáo, họp hành. Đi đường Trường Sơn phải mất hai, ba tháng trời. Đi tàu biển của chúng tôi nhiều nhất chỉ mất một tuần...

Mật độ tàu đi lại dày đặc như vậy thì nguy cơ lộ bí mật con đường chiến lược đặc biệt này cũng ngày càng lớn. Có thể nói là mối lo nơm nớp từng ngày. Mà bí mật thì có thể rò rỉ từ những kẽ hở rất nhỏ, rất khó lường.

Một bí mật cao hơn tất cả

Có một chuyện thế này: tàu chúng tôi khi đi vào chở vũ khí rất nặng nên tàu khẳm, đi tương đối đằm. Khi trở ra lại đi tàu không, tàu nhẹ quá, gặp sóng to gió lớn rất chông chênh. Cho nên khi trở ra chúng tôi thường chất đủ thứ linh tinh lên tàu cốt cho nặng: đất đá, than củi, bất cứ thứ gì...

Một lần vô tình anh em chở ra cả một tàu toàn cây dừa nước. Dừa nước Nam bộ thiếu gì. Chở về đến căn cứ của đoàn ở phía trên bến Bính, Hải Phòng rồi đổ bừa xuống đấy... Và quên bẵng đi...

Không ngờ dừa nước là thứ cây rất khỏe. Chỉ một thời gian sau cả một vùng bờ sông phía sau căn cứ bến Bính đã thành một bãi dừa nước rậm rạp, bạt ngàn. Vậy mà chúng tôi bận bịu bao nhiêu công việc chẳng ai để ý.

Cho đến một hôm, có một anh công nhân quê Nam bộ tập kết làm việc ở một nhà máy gì đó bên Hải Phòng, một buổi chiều chắc là nhớ nhà, nhớ quê hương, đi lang thang một mình dọc bờ sông, tình cờ thấy mấy trái dừa nước trôi bập bềnh trên mặt sông.

Anh nhặt lấy, đêm về chợt nghĩ: ở miền Bắc rất hiếm dừa nước. Mấy trái dừa nước này đúng là dừa Nam bộ rồi. Ai mang nó ra đây? Tại sao lại trôi dạt tận bờ sông này?...

Mấy hôm sau anh tẩn mẩn mò đi ngược bờ sông và khám phá bãi dừa nước của chúng tôi. Anh lân la tìm gặp anh em chúng tôi, hỏi: “Có phải các anh đã vào tận Nam bộ mang giống dừa này ra đây không?”.

Thật là nguy to! Tin tức ấy được báo cáo ngay lên Bộ tư lệnh Hải quân, rồi lên tận trung ương. Đoàn chúng tôi bị chỉnh một trận ra trò, được lệnh phá sạch ngay hết bãi dừa nước nọ và phải tổ chức bí mật theo dõi ráo riết anh công nhân nặng lòng nhớ quê hương kia...

Cũng may, theo dõi rất lâu không thấy có động tĩnh gì khác, chắc anh công nhân ấy rồi cũng vô tình quên đi chuyện mấy trái dừa nước, hoặc anh là người có ý tứ, đã biết giữ kín sự khám phá và mối nghi ngờ của mình, không tiết lộ thêm với ai khác... Những ngày ấy khắc nghiệt như thế đó, một tình cảm quê hương thật đẹp thế cũng lại rất có thể trở thành nguy hiểm cho cả một sự nghiệp lớn ta từng biết bao công phu xây dựng, gìn giữ...

Còn một khía cạnh khác nữa cũng rất tế nhị, phức tạp. Ngày ấy tất cả chúng tôi đều còn rất trẻ, hầu hết chưa có gia đình riêng, chuyện yêu đương không thể tránh hết được. Không thể cấm đoán nhưng quả thật mọi mối quen biết của chúng tôi đều bị giám sát rất khắt khe. Chúng tôi biết và hiểu yêu cầu khắc nghiệt của công tác này đòi hỏi phải như vậy.

Một lần cơ quan bảo vệ báo cáo một thủy thủ trong một chuyến đi phép đã gặp và yêu một chị y tá ở Bệnh viện Việt Trung trên Hà Nội tên là Phúc. Và hình như chị Phúc có biết về công việc của lữ đoàn. Cán bộ bảo vệ đi điều tra, không xác minh được điều gì rõ rệt. Nhưng cậu thủy thủ nọ biết mối lo của đoàn liền lẳng lặng cắt đứt và trốn biệt người yêu.

Chị Phúc cuống quít bổ đi tìm khắp nơi, đau khổ vì đây là mối tình đầu của chị... Về sau cậu thủy thủ ấy hi sinh, mất tích trên vịnh Thái Lan. Chắc chị Phúc mãi mãi không bao giờ biết gì nữa về người lính thủy đẹp trai đã đến một lần với chị rồi vĩnh viễn biệt tăm ấy...

Có trăm nghìn câu chuyện như vậy, trăm nghìn hi sinh thầm lặng, vô danh như vậy, ngày ấy.Ngày ấy, đối với mỗi chúng tôi, bí mật của con đường là thiêng liêng, là cao hơn tất cả.
Phương châm công tác trên biển của chúng tôi là: bí mật, bất ngờ, tránh chạm địch đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ, khi cuối cùng không tránh được thì chiến đấu đến cùng, không để địch lấy tàu, lấy hàng, lấy tài liệu, không để địch bắt sống.

Về sau có sửa lại: “Trong trường hợp bị địch bắt, giữ vững khí tiết của người cộng sản, đấu tranh để tìm mọi cách tiếp tục nhiệm vụ”. Rồi sau lại bổ sung: “Trong trường hợp lạc đến các nước Đông Nam Á, bị bắt thì đấu tranh tìm mọi cách gặp sứ quán ta để trở về tiếp tục nhiệm vụ”.

Như vậy nghĩa là một mặt hết sức kiên trì giữ đến cùng bí mật của con đường, song mặt khác chúng tôi cũng đã nghĩ đến khả năng một ngày nào đó không thể tránh phải chạm địch, đối mặt với chúng. Mật độ hoạt động ngày càng lớn, càng dày, cái ngày ấy càng đến gần.
Và cuối cùng ngày ấy đã đến thật: ngày 16-2-1965. Ngày hôm đó bùng nổ vụ Vũng Rô.

Vũng Rô, vùng đất hiểm yếu ấy nằm gần bên thành phố Nha Trang, cũng gần bên Cam Ranh - căn cứ hải quân của Mỹ ngụy. Trước khi xảy ra sự kiện ngày 16-2-1965, bất ngờ và táo bạo, những con tàu không số đã chọn Vũng Rô làm nơi cập bến, chuyển lên bờ hàng trăm tấn súng đạn. Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 1964…

Vũng Rô - bến đậu trong lòng địch

Câu chuyện của Nguyễn Long An đưa chúng tôi trở về với một vùng đất hiểm yếu và ác liệt vào bậc nhất trong mấy cuộc chiến tranh đã qua: vùng Vũng Rô.

Điều bất ngờ ở nơi nguy hiểm nhất

Con đường thiên lý số 1 và đường xe lửa xuyên Việt Bắc - Nam, đến chặng cuối tỉnh Phú Yên đầu tỉnh Khánh Hòa thì gặp một rặng núi lớn, một cánh tay vạm vỡ của dãy Trường Sơn vươn ra biển Đông, chắn ngang.

Đường xe lửa phải chui qua một hầm dài. Còn đường thiên lý trên bộ thì quanh co leo lên một ngọn đèo cao ngất, hiểm trở: đèo Cả - một trong những ngọn đèo cao nhất ở nước ta và là ngọn đèo cao cuối cùng trên quốc lộ 1 Bắc - Nam. Bên này là núi lớn, tiếp liền với rừng già, nối lên tận Trường Sơn. Bên kia là biển sâu hoắm.

Ngay giữa đỉnh đèo nhìn xuống theo hướng đông, thăm thẳm dưới hàng trăm thước sâu là một vịnh biển tuyệt vời: gần như hình tròn, rộng và sâu, ba mặt vách đá dựng đứng, mặt thứ tư nhìn ra biển lại có hai hòn đảo nhỏ như hai tấm bình phong che chắn: một cảng biển tuyệt vời cho những con tàu đại dương hàng vạn tấn... Đó chính là Vũng Rô.

Không biết ai là người đầu tiên đã táo bạo nghĩ đến việc dùng Vũng Rô làm bến đón các con tàu không số của chúng ta. Thật hết sức mạo hiểm: quá gần một thành phố lớn là Nha Trang, cũng quá gần Cam Ranh là căn cứ hải quân lớn nhất miền Nam của Mỹ ngụy.

Con đường chiến lược số 1 thì chạy ngay trên đỉnh đèo Cả, chỉ cách vài trăm mét, xe quân sự của địch qua lại suốt ngày đêm như mắc cửi. Lại cũng quá gần khu du kích Hòa Hiệp phía bắc và chiến khu Hòn Hèo, Hòn Khói phía nam, là vùng địch rất chăm chú theo dõi và thường xuyên càn quét đánh phá...

Nhưng trong chiến tranh thường vẫn vậy: nơi nguy hiểm nhất cũng có thể là nơi bất ngờ. Nghệ thuật chiến tranh, đặc biệt trên con đường biển Đông gian nan này, là biết và dám đi vào kẽ hở bất ngờ ấy, dám mạo hiểm để giành thắng lợi...

Nguyễn Long An kể:

- ... Vậy là đến giữa năm 1964, ta quyết định phương án táo bạo ấy: lấy Vũng Rô làm một bến lớn cho Khu 5. Chuyến đầu tiên do anh Hồ Đắc Thạnh, thuyền trưởng hải quân, quê ở Qui Nhơn, chỉ huy. Tàu đi xa ra ngoài biển quốc tế. Đến đúng tọa độ, chờ sẩm tối, đột ngột chuyển hướng, dùng tốc độ cao đâm thẳng vào đúng Vũng Rô, 11 giờ đêm phải đến bến.

Hòa Hiệp là vùng du kích mạnh của ta. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương ta do một đồng chí thường vụ tỉnh ủy - anh Sáu Suyền - chỉ huy nhanh chóng băng qua dãy núi dưới chân hòn Vọng Phu và mỏm Đá Bia, đến chực sẵn ở bến.

Tàu vừa đến bến, toàn bộ lực lượng được tổ chức rất chặt chẽ, lập tức ùa xuống, bốc dỡ, một bộ phận ngay trong đêm vượt đường số 1 chuyển thẳng lên các dãy núi có rừng rậm ăn liền với căn cứ của ta ở phía tây trên dãy Trường Sơn. Số hàng còn lại không chuyển kịp trong đêm thì cất giấu trong các hang đá gần bến.

Rừng ở đây thưa, toàn cây gai lúp xúp nhưng lại nhiều hang đá... Tàu dỡ xong hàng tức tốc quay ra ngay, vừa sáng lại đã ra đến vùng biển quốc tế...

Chuyến đầu thắng lợi, phấn khởi lắm. Đi tiếp chuyến thứ hai, thứ ba, thứ tư...

Một lần liều lĩnh...

... Tôi về lữ đoàn, được phân công làm chiến sĩ cơ điện, tháng 12-1964 đi chuyến đầu tiên, tàu số 43 vào Cà Mau. Lần đầu còn rất lúng túng, nhờ các anh đi trước dìu dắt. Đi về mất một tháng, an toàn.

Bấy giờ đã gần tết, lại có lệnh chuẩn bị đi tiếp. Từ Đồ Sơn vào Cà Mau. Chuẩn bị sắp xong thì chiều 30 tết bỗng có lệnh điều sang tàu khác, số 401, tập kết ở Hòn Gai, do anh Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng, anh Phan Văn Bảng làm chính trị viên, chuẩn bị đổ bộ vào Khu 5, Vũng Rô.

Đúng đêm mồng 1 Tết Ất Tỵ, tức ngày 2-2-1965, chúng tôi rời bến. Đi vào ngày tết là lúc địch sơ hở. Chuyến này, thấy tình hình địch có vẻ hơi khác thường: ban ngày, cứ 5-6 tiếng một lần lại có một máy bay địch bay dọc theo thân tàu, lúc cao lúc thấp. Đêm, lại thấy tàu thủy địch kèm, chiếc phía trước, chiếc phía sau. Nhưng chúng tôi đi trên vùng biển quốc tế nên cứ bình thản, treo cờ như tàu buôn. Sau này chúng tôi mới biết lúc đó địch đã đánh hơi và nghi ngờ. Chúng đã bắt đầu theo dõi...

Tối 15-2, chúng tôi đến điểm chuyển hướng... Chạy ra một lúc, anh Thêm khẳng định đã đúng nam Tuy Hòa, cách bờ 40 hải lý. Chúng tôi vào sát bờ, cứ men theo những chấm đèn điện dọc bờ mà đi. Biển ở đây có cái lợi là nước sâu, tàu ta cứ chạy men bờ, chen vào giữa các tàu đánh cá của dân.

Qua khỏi Tuy Hòa, thấy rõ đỉnh núi Vọng Phu và hòn Đá Bia: đêm ấy là 14 âm lịch, trăng rất sáng. Anh Thêm là thuyền trưởng lão luyện. Vòng qua mỏm Vọng Phu chúng tôi vào sát bờ hơn và lọt vào đúng Vũng Rô. Nhưng do phải chạy vòng vo lúc tối nên đến bến có chậm, đã gần 3g sáng.

Lập tức bốc dỡ, cất hàng. Nhưng tàu gần 100 tấn. Không tài nào bốc kịp trước trời sáng.
Xử trí thế nào đây?

Thường khi gặp tình huống này, an toàn nhất là cất được một phần hàng, còn lại cứ để đấy, đến trước 4g, chậm nhất là 5g sáng, quay tàu chạy ra vùng biển quốc tế, tối sẩm lại quay vào cất nốt.

Nhưng đêm ấy chúng tôi lại không chọn cách đó: chúng tôi quyết định cứ cất cho hết hàng đến sáng bạch, rồi ngụy trang, giấu tàu ngay tại bến, ở lại bến suốt ngày sau.

Vì sao lúc bấy giờ chúng tôi lại chọn phương án mạo hiểm ấy?

Có lẽ vì rất nhiều nguyên nhân. Từ năm 1962, mở đầu con đường này đến nay, chưa chuyến nào bị lộ. Về căn bản, địch chưa hay biết gì.

Riêng cảng Vũng Rô, mấy chuyến liền đều trót lọt, an toàn.

Tình hình ấy rõ ràng khiến chúng tôi sinh chủ quan.

Lúc bấy giờ chúng tôi chưa thể biết được điều này: bọn địch tuy chưa nắm được quả tang việc vận chuyển bí mật trên biển của ta, nhưng dần dà chúng đã chú ý một hiện tượng có phần khác thường: du kích các vùng ven biển Khu 5 ngày càng đánh mạnh, được trang bị một số vũ khí khá hiện đại: súng AK, súng cối cá nhân, đại liên, có khi cả trọng liên 12 li 7, cả súng bắn tăng B40. Đạn thì ê hề.

Số súng đạn này chính là anh chị em du kích ven biển của ta trong khi vận chuyển lên trên cho bộ đội chủ lực đã ranh ma “chôm” bớt một phần. Bọn địch đã có đặt câu hỏi: phải chăng có một con đường đưa vũ khí bí mật từ miền Bắc vào, đổ bộ lên các bến ven biển khu vực này? Chúng đang chăm chú theo dõi...

Chúng tôi quyết định ở lại bến hôm ấy có lẽ cũng có phần vì các bến miền Nam đối với chúng tôi ngày đó bao giờ cũng có sức hấp dẫn rất mạnh. Tình cảm của anh chị em du kích, cán bộ, đồng bào mà những lần trước chúng tôi chỉ thoáng gặp vài giờ trong đêm, không kịp nhìn mặt, không kịp cả nắm tay, tình cảm đó đối với chúng tôi thắm thiết vô cùng. Một giọng nói miền Nam thì thào trong gió biển đêm. Một khuôn mặt thoáng mờ dưới ánh trăng khuya... Và cả không khí chiến trường ngày ấy có gì đó thật thiêng liêng... Ở lại được một ngày trên mảnh đất cháy bỏng và yêu thương này, giữa những con người này, hạnh phúc biết bao.

Anh Thêm, anh Bảng và nhiều thủy thủ trong đoàn đều là người quê Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa. Có người vợ con chỉ ở cách bến năm, mười cây số. Không có chuyện lén về thăm nhà đâu, nhưng được ở lại một ngày, hít thở một chút không khí quê hương đang chiến đấu, ước ao thầm kín mà cháy bỏng đó dễ gì cầm lại được. Một chút liều lĩnh, đã sao...

Vậy đó. Ban chỉ huy tàu quyết định ở lại. Và chúng tôi đều đồng tình. Tự mình cố dẹp đi mọi lo ngại...

Bùng nổ sự kiện Vũng Rô

Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.

Mỏm đá lạ trên vách núi

Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy, thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung hay sát mặt nước.

Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.

6g sáng...

Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn Mũi Điệng.

Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.

7g sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra...

Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của địch chúng tôi mới biết.

Ngày 15-2-1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hòa, trên chiến trường Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.

Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.

Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12g trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô” mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về bộ chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Nha Trang.

Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển. Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là “mỏm đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô” mới xuất hiện từ sáng nay.

Bấy giờ là khoảng 1g chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá ngụy trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói, toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.

Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom. Tới 5g chiều thì tàu chìm hoàn toàn.

Cuộc đụng độ không cân sức

Trước đó, khoảng 4g chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này bố trí ở khoang máy.

Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên, cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.

Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.

Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.

Tối 17-2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong, chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.

Chiều 17-2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thủy đổ bộ, cả máy bay liên tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng ngụy từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.

Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hòa Hiệp, hai tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thủy thủ, trong đó thuyền trưởng Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào chưa kịp chuyển đi hết.

Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.

Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.

Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.

Giai đoạn mới sau Vũng Rô

Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với chúng tôi:

- Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.

Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.

Tháng 4-1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải quân ngụy tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội ngụy được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.

Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng 9-1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn...

Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao ra vùng biển quốc tế an toàn.

Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh...

Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng nào khác.

Tháng 10-1965, tiếp tục mở lại con đường.

Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu...

Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972, hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót lọt...

Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm làm bến đậu. Mấy mươi năm sau, nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm về một bến đậu như vậy ở tỉnh Quảng Ngãi. Cũng từ đây ông nghe thấy không chỉ tiếng gầm của súng đạn...
Một câu chuyện tình

Ngày 8-3-1965, tức là chưa đầy một tháng sau vụ Vũng Rô, sư đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng phía bắc tỉnh Quảng Nam, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.

Ít lâu sau, một sư đoàn thứ hai đổ tiếp vào Chu Lai phía nam tỉnh Quảng Nam. Rồi sư đoàn không vận số 1 nổi tiếng của Mỹ đổ vào Bình Định. Rồi các sư đoàn, lữ đoàn Nam Triều Tiên khét tiếng gian ác tràn vào suốt dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa...

Chiến trường Khu 5 trở thành một trong những chiến trường ác liệt nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh. Khu 5 khao khát đòi súng. Nhưng vận chuyển đường biển bí mật cho Khu 5 cũng là khó khăn nhất, thậm chí có thể nói là mối lo trăn trở nhất của những người chỉ huy, và là nỗi lo sợ ngay ngáy của những cán bộ thủy thủ được giao nhiệm vụ đi làm công việc mạo hiểm này.

Vậy tiếp tế cho Khu 5 bằng cách nào? Chỉ còn một cách: vào bãi ngang.

Bãi ngang tức là những bãi cát dài ven biển dọc suốt miền Trung. Vô cùng trống trải, nhưng vì rất dài, hàng mấy trăm cây số, chỗ nào cũng phẳng lì tăm tắp, nên địch cũng chẳng biết tập trung vào chỗ nào mà đề phòng, ngăn chặn. Chúng ta chơi trò ú tim với địch trên suốt mấy trăm cây số bãi ngang này vậy!

Chúng tôi lần tìm về một bãi ngang như vậy: bãi ngang Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Một bà cụ ở Phổ An bảo chúng tôi:

- Có, có một lần tàu mình vào đây, tại bãi ngang này. Anh em mình phá tàu và đánh nhau với tụi ngụy. Rồi bà con bọn tui nuôi giấu mấy ngày liền, trước khi bắt được liên lạc đưa anh em lên núi... Tui còn nhớ một anh chỉ huy người Nam bộ tên là Tư Thắng... Không biết bây giờ còn sống không?...

Tư Thắng còn sống. Ở Lữ đoàn 125 chúng tôi đã tìm hỏi được địa chỉ của anh: Tư Thắng, tức Nguyễn Đức Thắng, hiện ở Trà Nóc, Cần Thơ. Cả chị Sáu Thùy nữa, vợ anh. Câu chuyện tình yêu của họ cũng từng nổi tiếng một thời trong các đơn vị của con đường bí mật biển Đông.

Cú sét đánh

Tháng 9-1963 tôi (Tư Thắng) đi chuyến đầu tiên, làm thuyền phó, thuyền trưởng là anh Châu người Khu 5, vào bến Kiến Vàng, Cà Mau. Chuyến thứ hai đi tàu sắt, cũng vào Kiến Vàng. Chuyến thứ ba định đi bến Khâu Băng, Bến Tre nhưng bị lệch hướng, cuối cùng vào bến Trà Vinh, cũng trót lọt. Chuyến thứ tư đi tàu số 43, lại vào Kiến Vàng...

Anh Tư Thắng liếc nhìn chị Thùy, hơi cười, còn chị Sáu Thùy thì lườm anh. Rồi chị ý tứ đứng dậy bỏ đi đâu đó.

- Chính chuyến này mới sinh sự đây các anh ạ. Không biết sao mà lần này chúng tôi gặp bão nhiều thế. Trên đường vào sáu trận bão liên tiếp. Nhưng rồi cũng vào tới nơi trót lọt. Ngày ấy đi trên biển gian nan, vất vả, hiểm nguy, nhưng người thủy thủ đã vô đến bến thì sướng như tiên. Đến bến, chúng tôi được coi như những anh hùng, như con cưng.

Bấy giờ ở bến có một số chị em cấp dưỡng, y tá, trong đó có Sáu Thùy, tức là nhà tôi bây giờ đây. Tôi để ý thấy Sáu Thùy chăm sóc tôi có phần nhiều hơn những anh em khác, cách thức chăm sóc, ánh mắt cũng khác, lời ăn tiếng nói cũng khác.

Con gái miền Tây rất lạ các anh ạ, không biết các anh có nhận xét thấy không, rất mộc mạc, thùy mị, nhưng cũng ráo riết, dữ dội. Hay là chiến tranh khiến con người như vậy, tôi cũng không hiểu hết được. Sự bất trắc, cái chết gần kề khiến mọi sự bỗng trở nên đau đớn hơn, mong manh hơn mà cũng lại da diết, quyết liệt hơn chăng? Ngay từ lần gặp mặt thứ hai, tức là bữa cơm thứ hai ở bến, tôi đã thấy cô ấy gần như muốn bộc lộ tất cả với tôi, không cần che giấu gì nữa...

Còn tôi, tôi nghe nhà văn các anh bảo có cái gọi là “cú sét đánh”. Tôi đã bị một cú sét đánh như vậy. Tôi yêu từ đầu nhưng cố kìm mình lại bằng cách bông đùa. Tôi nghĩ tôi đã đi vào cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu cảm tử rồi, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, đem cột cuộc đời người ta vào mình làm gì, càng yêu thương người ta bao nhiêu thì càng phải cắn răng lại mà rứt ra bấy nhiêu... Nói thế chứ không dễ đâu.

Năm ấy, 1964, tôi 30, Sáu Thùy 20, tính thật đúng ra là mới 19, con gái miền Tây sông nước, 19, nói thật các anh, ngon lành hừng hực. Tôi cố tự nén mình bằng cách nằm lì dưới tàu, đến giờ ăn cũng không lên. Nhưng như thế càng nguy vì cô ấy cho là tôi ốm, lại mang cơm nước thuốc men xuống tàu, và ở đấy chỉ có hai chúng tôi... Nhùng nhằng như vậy cho đến ngày tàu quyết định rời bến ra Bắc.

Tôi nghĩ, vừa mừng vừa đau đớn: Thôi, như vậy là thoát, như vậy là hết! Ngày hôm đó mọi công việc đã chuẩn bị xong, công việc cuối cùng là ngụy trang tàu cũng đã làm xong thì 6 giờ tối, mở đài Hà Nội bỗng nghe tin bão khẩn cấp. Thế là đành ở lại. Một tuần. Rồi lại bão nữa. Rồi tiếp bão nữa. Không biết sao năm đó bão nhiều thế. Hay là cái số chúng tôi nó vậy?... Tàu phải nằm lại bến suốt một tháng. Và kéo dài một tháng trời thì sự chống chọi trong tôi đuối dần, không còn sức nữa.

Sáu Thùy cũng vậy. Con gái miền Tây ghê gớm, đánh giặc dữ dằn mà yêu thương cũng dữ dội. Chúng tôi đã đến với nhau không cưỡng lại nổi. Thực tế đã nên vợ nên chồng. Tôi cũng không biết nếu không phải là trong chiến tranh, trong hoàn cảnh khác yên ổn, hòa bình, thì chúng tôi có thế không? Cũng có khi chính là cuộc chiến đấu sinh tử, đầy bất trắc mất còn đã làm cho tình yêu càng mãnh liệt cũng nên...

Hết bão, tôi trở ra Bắc, mang theo lý lịch của Sáu Thùy để báo cáo đơn vị xin cho chúng tôi chính thức xây dựng với nhau. Ngày ấy đối với chúng tôi là phải như thế. Chúng tôi là một đơn vị đặc biệt, những người lính đặc biệt, phải được quản lý đặc biệt. Mọi ngóc ngách trong đời sống riêng tư đều phải được đoàn thể kiểm soát chặt chẽ. Tôi mang lý lịch Sáu Thùy ra báo cáo, tổ chức đồng ý ngay.

Biển Đông cách biệt

Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng rồi hết trục trặc này đến trục trặc khác, lần nào cũng gần đến phút cuối cùng mới nảy ra trục trặc, tôi lỡ hết chuyến này tới chuyến khác, không còn có dịp nào trở lại Kiến Vàng, Cà Mau nữa. Rồi vụ Vũng Rô, rồi bãi ngang ác nghiệt Khu 5... Thỉnh thoảng có chuyến tàu khác vào Kiến Vàng hay có tàu từ Kiến Vàng ra Bắc, chúng tôi vẫn thư từ cho nhau.

Thư từ thống thiết nhưng cách biệt cả một biển Đông sóng gió! Anh em thủy thủ bọn tôi nhiều thằng nghịch như quỉ sứ, có lần tàu từ Kiến Vàng ra, Sáu Thùy gửi cho tôi thư kèm một gói quà, dọc đường bọn quỷ sứ nắn xem thử, thấy mềm mềm, chúng nó giở ra coi thử. Thì thấy... bà ấy gửi ra cho tôi... mấy cái đồ lót phụ nữ kín đáo nhất của mình!... Phụ nữ miền Tây, các anh coi, có ghê gớm không! Đã yêu thì như đám cháy lớn, muốn đốt cháy hết cả biển Đông không chơi...

Khoảng cuối năm 1967 đầu 1968, bẵng đi một thời gian khá dài địch đánh phá căng thẳng, tàu ta không vào được bến Kiến Vàng. Thư từ giữa hai chúng tôi cũng đứt đoạn. Sáu Thùy nóng ruột như điên như dại. Cô ấy nảy ra một ý định ghê gớm: đi tìm tôi.

Các anh nghĩ coi: đang giữa cuộc chiến tranh mênh mông, chiến trường miền Nam đang lúc ác liệt nhất, miền Bắc lúc này cũng đang thời kỳ chiến tranh phá hoại, bom đạn mịt mù, vậy mà một người đàn bà, một người con gái ở tận cuối mũi Cà Mau, ở nơi chót vót tận cùng đất nước, một mình lên đường, thân gái dặm trường, băng qua tất cả, khói lửa, đạn bom, cái chết, dư luận, cả “kỷ luật” nữa, không cần gì hết, quyết đi tìm một người đàn ông, một người con trai ở đâu đó tít tận đầu kia đất nước cũng đang cháy lửa chiến tranh.

Một cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng có chút lôgic nào cả. Nếu có thì chỉ có một thứ lôgic: lôgic kỳ lạ của tình yêu... Không biết các anh nghĩ thế nào, chứ riêng tôi thì tôi vẫn nghĩ có khi chính vì có những cái lôgic kỳ lạ như vậy mà chúng ta đã đi qua được cuộc chiến tranh chống Mỹ khủng khiếp đấy...

Chị Sáu Thùy lại đã lặng lẽ trở lại ngồi bên cạnh chúng tôi từ bao giờ, im lặng, trầm tĩnh nghe câu chuyện huyền thoại về chính mình, về tình yêu của mình, do chồng đang kể lại. Trầm tĩnh, bình lặng, như là đang nghe kể về một ai đó khác, về một huyền thoại nào đó khác. Huyền thoại về tình yêu của người con gái VN trong chiến tranh.

Chúng tôi trân trọng quay lại nhìn khuôn mặt chị: khuôn mặt một người phụ nữ miền Tây Nam bộ, đã luống tuổi nhưng vẫn còn giữ nét duyên dáng đậm đà của con gái miền Tây, một khuôn mặt hầu như chẳng có gì đặc biệt, khác biệt, như trăm ngàn khuôn mặt các cô gái miền sông nước ta vẫn gặp hằng ngày ở đây, phúc hậu, hiền lành, đằm thắm, thậm chí có cả một chút cam chịu nữa, duy chỉ có ở đuôi mắt, nhìn kỹ lắm mới nhận ra, một nét rắn rỏi và đắm đuối kín đáo và da diết...

Anh Tư Thắng:

- Các anh tính có ghê không: cuối 1967 bả quyết lên đường đi tìm tôi. Đi tìm ở đâu?... Đi ra Bắc!...

Hàng năm ròng đi tìm anh, chị Sáu Thùy chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác, cứ từng chặng một, để lần tìm ra Bắc. Cho đến tháng 2-1968, một tin cơ mật lộ ra: một con tàu không số vào gần bến Cà Mau thì bị nổ tung, tất cả đều hi sinh. Đinh ninh có anh trong chuyến đi ấy, chị Sáu Thùy lên gặp cấp ủy, đầu bịt khăn trắng xin được để tang chồng…

Nhưng lúc này tàu của anh Tư Thắng liên tục chạm địch khi đi vào bãi ngang Khu 5. Năm 1967 phải đánh giáp lá cà trên biển, năm 1968 bị địch chặn đánh bằng cả tàu chiến, trực thăng và xe tăng... Mãi đến đầu năm 1972, phương thức vận chuyển mới đã đưa đến một bất ngờ…

Một câu chuyện tình

Ngày 8-3-1965, tức là chưa đầy một tháng sau vụ Vũng Rô, sư đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng phía bắc tỉnh Quảng Nam, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.

Ít lâu sau, một sư đoàn thứ hai đổ tiếp vào Chu Lai phía nam tỉnh Quảng Nam. Rồi sư đoàn không vận số 1 nổi tiếng của Mỹ đổ vào Bình Định. Rồi các sư đoàn, lữ đoàn Nam Triều Tiên khét tiếng gian ác tràn vào suốt dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa...

Chiến trường Khu 5 trở thành một trong những chiến trường ác liệt nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh. Khu 5 khao khát đòi súng. Nhưng vận chuyển đường biển bí mật cho Khu 5 cũng là khó khăn nhất, thậm chí có thể nói là mối lo trăn trở nhất của những người chỉ huy, và là nỗi lo sợ ngay ngáy của những cán bộ thủy thủ được giao nhiệm vụ đi làm công việc mạo hiểm này.

Vậy tiếp tế cho Khu 5 bằng cách nào? Chỉ còn một cách: vào bãi ngang.

Bãi ngang tức là những bãi cát dài ven biển dọc suốt miền Trung. Vô cùng trống trải, nhưng vì rất dài, hàng mấy trăm cây số, chỗ nào cũng phẳng lì tăm tắp, nên địch cũng chẳng biết tập trung vào chỗ nào mà đề phòng, ngăn chặn. Chúng ta chơi trò ú tim với địch trên suốt mấy trăm cây số bãi ngang này vậy!

Chúng tôi lần tìm về một bãi ngang như vậy: bãi ngang Phổ An, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Một bà cụ ở Phổ An bảo chúng tôi:

- Có, có một lần tàu mình vào đây, tại bãi ngang này. Anh em mình phá tàu và đánh nhau với tụi ngụy. Rồi bà con bọn tui nuôi giấu mấy ngày liền, trước khi bắt được liên lạc đưa anh em lên núi... Tui còn nhớ một anh chỉ huy người Nam bộ tên là Tư Thắng... Không biết bây giờ còn sống không?...

Tư Thắng còn sống. Ở Lữ đoàn 125 chúng tôi đã tìm hỏi được địa chỉ của anh: Tư Thắng, tức Nguyễn Đức Thắng, hiện ở Trà Nóc, Cần Thơ. Cả chị Sáu Thùy nữa, vợ anh. Câu chuyện tình yêu của họ cũng từng nổi tiếng một thời trong các đơn vị của con đường bí mật biển Đông.

Cú sét đánh

Tháng 9-1963 tôi (Tư Thắng) đi chuyến đầu tiên, làm thuyền phó, thuyền trưởng là anh Châu người Khu 5, vào bến Kiến Vàng, Cà Mau. Chuyến thứ hai đi tàu sắt, cũng vào Kiến Vàng. Chuyến thứ ba định đi bến Khâu Băng, Bến Tre nhưng bị lệch hướng, cuối cùng vào bến Trà Vinh, cũng trót lọt. Chuyến thứ tư đi tàu số 43, lại vào Kiến Vàng...

Anh Tư Thắng liếc nhìn chị Thùy, hơi cười, còn chị Sáu Thùy thì lườm anh. Rồi chị ý tứ đứng dậy bỏ đi đâu đó.

- Chính chuyến này mới sinh sự đây các anh ạ. Không biết sao mà lần này chúng tôi gặp bão nhiều thế. Trên đường vào sáu trận bão liên tiếp. Nhưng rồi cũng vào tới nơi trót lọt. Ngày ấy đi trên biển gian nan, vất vả, hiểm nguy, nhưng người thủy thủ đã vô đến bến thì sướng như tiên. Đến bến, chúng tôi được coi như những anh hùng, như con cưng.

Bấy giờ ở bến có một số chị em cấp dưỡng, y tá, trong đó có Sáu Thùy, tức là nhà tôi bây giờ đây. Tôi để ý thấy Sáu Thùy chăm sóc tôi có phần nhiều hơn những anh em khác, cách thức chăm sóc, ánh mắt cũng khác, lời ăn tiếng nói cũng khác.

Con gái miền Tây rất lạ các anh ạ, không biết các anh có nhận xét thấy không, rất mộc mạc, thùy mị, nhưng cũng ráo riết, dữ dội. Hay là chiến tranh khiến con người như vậy, tôi cũng không hiểu hết được. Sự bất trắc, cái chết gần kề khiến mọi sự bỗng trở nên đau đớn hơn, mong manh hơn mà cũng lại da diết, quyết liệt hơn chăng? Ngay từ lần gặp mặt thứ hai, tức là bữa cơm thứ hai ở bến, tôi đã thấy cô ấy gần như muốn bộc lộ tất cả với tôi, không cần che giấu gì nữa...

Còn tôi, tôi nghe nhà văn các anh bảo có cái gọi là “cú sét đánh”. Tôi đã bị một cú sét đánh như vậy. Tôi yêu từ đầu nhưng cố kìm mình lại bằng cách bông đùa. Tôi nghĩ tôi đã đi vào cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu cảm tử rồi, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, đem cột cuộc đời người ta vào mình làm gì, càng yêu thương người ta bao nhiêu thì càng phải cắn răng lại mà rứt ra bấy nhiêu... Nói thế chứ không dễ đâu.

Năm ấy, 1964, tôi 30, Sáu Thùy 20, tính thật đúng ra là mới 19, con gái miền Tây sông nước, 19, nói thật các anh, ngon lành hừng hực. Tôi cố tự nén mình bằng cách nằm lì dưới tàu, đến giờ ăn cũng không lên. Nhưng như thế càng nguy vì cô ấy cho là tôi ốm, lại mang cơm nước thuốc men xuống tàu, và ở đấy chỉ có hai chúng tôi... Nhùng nhằng như vậy cho đến ngày tàu quyết định rời bến ra Bắc.

Tôi nghĩ, vừa mừng vừa đau đớn: Thôi, như vậy là thoát, như vậy là hết! Ngày hôm đó mọi công việc đã chuẩn bị xong, công việc cuối cùng là ngụy trang tàu cũng đã làm xong thì 6 giờ tối, mở đài Hà Nội bỗng nghe tin bão khẩn cấp. Thế là đành ở lại. Một tuần. Rồi lại bão nữa. Rồi tiếp bão nữa. Không biết sao năm đó bão nhiều thế. Hay là cái số chúng tôi nó vậy?... Tàu phải nằm lại bến suốt một tháng. Và kéo dài một tháng trời thì sự chống chọi trong tôi đuối dần, không còn sức nữa.

Sáu Thùy cũng vậy. Con gái miền Tây ghê gớm, đánh giặc dữ dằn mà yêu thương cũng dữ dội. Chúng tôi đã đến với nhau không cưỡng lại nổi. Thực tế đã nên vợ nên chồng. Tôi cũng không biết nếu không phải là trong chiến tranh, trong hoàn cảnh khác yên ổn, hòa bình, thì chúng tôi có thế không? Cũng có khi chính là cuộc chiến đấu sinh tử, đầy bất trắc mất còn đã làm cho tình yêu càng mãnh liệt cũng nên...

Hết bão, tôi trở ra Bắc, mang theo lý lịch của Sáu Thùy để báo cáo đơn vị xin cho chúng tôi chính thức xây dựng với nhau. Ngày ấy đối với chúng tôi là phải như thế. Chúng tôi là một đơn vị đặc biệt, những người lính đặc biệt, phải được quản lý đặc biệt. Mọi ngóc ngách trong đời sống riêng tư đều phải được đoàn thể kiểm soát chặt chẽ. Tôi mang lý lịch Sáu Thùy ra báo cáo, tổ chức đồng ý ngay.

Biển Đông cách biệt

Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng rồi hết trục trặc này đến trục trặc khác, lần nào cũng gần đến phút cuối cùng mới nảy ra trục trặc, tôi lỡ hết chuyến này tới chuyến khác, không còn có dịp nào trở lại Kiến Vàng, Cà Mau nữa. Rồi vụ Vũng Rô, rồi bãi ngang ác nghiệt Khu 5... Thỉnh thoảng có chuyến tàu khác vào Kiến Vàng hay có tàu từ Kiến Vàng ra Bắc, chúng tôi vẫn thư từ cho nhau.

Thư từ thống thiết nhưng cách biệt cả một biển Đông sóng gió! Anh em thủy thủ bọn tôi nhiều thằng nghịch như quỉ sứ, có lần tàu từ Kiến Vàng ra, Sáu Thùy gửi cho tôi thư kèm một gói quà, dọc đường bọn quỷ sứ nắn xem thử, thấy mềm mềm, chúng nó giở ra coi thử. Thì thấy... bà ấy gửi ra cho tôi... mấy cái đồ lót phụ nữ kín đáo nhất của mình!... Phụ nữ miền Tây, các anh coi, có ghê gớm không! Đã yêu thì như đám cháy lớn, muốn đốt cháy hết cả biển Đông không chơi...

Khoảng cuối năm 1967 đầu 1968, bẵng đi một thời gian khá dài địch đánh phá căng thẳng, tàu ta không vào được bến Kiến Vàng. Thư từ giữa hai chúng tôi cũng đứt đoạn. Sáu Thùy nóng ruột như điên như dại. Cô ấy nảy ra một ý định ghê gớm: đi tìm tôi.

Các anh nghĩ coi: đang giữa cuộc chiến tranh mênh mông, chiến trường miền Nam đang lúc ác liệt nhất, miền Bắc lúc này cũng đang thời kỳ chiến tranh phá hoại, bom đạn mịt mù, vậy mà một người đàn bà, một người con gái ở tận cuối mũi Cà Mau, ở nơi chót vót tận cùng đất nước, một mình lên đường, thân gái dặm trường, băng qua tất cả, khói lửa, đạn bom, cái chết, dư luận, cả “kỷ luật” nữa, không cần gì hết, quyết đi tìm một người đàn ông, một người con trai ở đâu đó tít tận đầu kia đất nước cũng đang cháy lửa chiến tranh.

Một cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng có chút lôgic nào cả. Nếu có thì chỉ có một thứ lôgic: lôgic kỳ lạ của tình yêu... Không biết các anh nghĩ thế nào, chứ riêng tôi thì tôi vẫn nghĩ có khi chính vì có những cái lôgic kỳ lạ như vậy mà chúng ta đã đi qua được cuộc chiến tranh chống Mỹ khủng khiếp đấy...

Chị Sáu Thùy lại đã lặng lẽ trở lại ngồi bên cạnh chúng tôi từ bao giờ, im lặng, trầm tĩnh nghe câu chuyện huyền thoại về chính mình, về tình yêu của mình, do chồng đang kể lại. Trầm tĩnh, bình lặng, như là đang nghe kể về một ai đó khác, về một huyền thoại nào đó khác. Huyền thoại về tình yêu của người con gái VN trong chiến tranh.

Chúng tôi trân trọng quay lại nhìn khuôn mặt chị: khuôn mặt một người phụ nữ miền Tây Nam bộ, đã luống tuổi nhưng vẫn còn giữ nét duyên dáng đậm đà của con gái miền Tây, một khuôn mặt hầu như chẳng có gì đặc biệt, khác biệt, như trăm ngàn khuôn mặt các cô gái miền sông nước ta vẫn gặp hằng ngày ở đây, phúc hậu, hiền lành, đằm thắm, thậm chí có cả một chút cam chịu nữa, duy chỉ có ở đuôi mắt, nhìn kỹ lắm mới nhận ra, một nét rắn rỏi và đắm đuối kín đáo và da diết...

Anh Tư Thắng:

- Các anh tính có ghê không: cuối 1967 bả quyết lên đường đi tìm tôi. Đi tìm ở đâu?... Đi ra Bắc!...

Hàng năm ròng đi tìm anh, chị Sáu Thùy chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác, cứ từng chặng một, để lần tìm ra Bắc. Cho đến tháng 2-1968, một tin cơ mật lộ ra: một con tàu không số vào gần bến Cà Mau thì bị nổ tung, tất cả đều hi sinh. Đinh ninh có anh trong chuyến đi ấy, chị Sáu Thùy lên gặp cấp ủy, đầu bịt khăn trắng xin được để tang chồng…

Nhưng lúc này tàu của anh Tư Thắng liên tục chạm địch khi đi vào bãi ngang Khu 5. Năm 1967 phải đánh giáp lá cà trên biển, năm 1968 bị địch chặn đánh bằng cả tàu chiến, trực thăng và xe tăng... Mãi đến đầu năm 1972, phương thức vận chuyển mới đã đưa đến một bất ngờ…

Cuộc chiến đấu đưa họ lại gần nhau

Vẫn ở cái hiên ấy của nhà anh Tư Thắng. Vẫn giọng nói hiền lành, đều đều của anh:
- ... Đúng là sau tám năm dài chúng tôi mới tìm được nhau. Nói là “chúng tôi tìm lại nhau” thì cũng được. Nhưng có lẽ đúng hơn phải nói: chính sự diễn biến kỳ lạ trên con đường biển Đông đã đưa chúng tôi lại đến với nhau.

Số là thế này... Sau chuyến đi bãi ngang Đức Phổ, Quảng Ngãi thả hàng đánh nhau phá tàu, lội ngược Trường Sơn trở ra Bắc, tôi còn tiếp tục đi một số chuyến nữa, về Khu 5 và Nam bộ. Nhưng các anh biết đấy, ngày càng khó khăn.

Cho đến nỗi chúng tôi thường lựa chính những lúc có sóng to bão lớn trên biển Đông mà đi, những lúc đó địch mới sơ hở. Tàu ta do xưởng 3 Hải Phòng đóng là tàu cỡ chịu sóng cấp 5, vậy mà có lần chúng tôi đi cấp 12. Tàu vượt sóng, khắp thân tàu kêu răng rắc, có lần sập cả hầm hàng xuống... Quyết tâm đến vậy đó, nhưng thực tế vẫn ngày càng bế tắc...

Tôi nhớ đâu đến khoảng đầu năm 1970 thì một số anh em chúng tôi nghe phong thanh trong Nam, phía cuối Cà Mau, ngoài đơn vị 962 tức là hệ thống bến do anh Bông Văn Dĩa phụ trách, đã có bộ phận tách ra thành lập một đơn vị khác, lấy tên là 371 do anh Tư Mau phụ trách...

Tàu không số “ra công khai”

Đầu năm 1972, tôi bỗng bất ngờ nhận được lệnh điều về chỗ anh Tư Mau. Bấy giờ là ở Đá Bạc, Quảng Ninh. Anh Tư Mau phổ biến nhiệm vụ: đoàn 371 tiếp tục công cuộc vận chuyển vũ khí trên biển Đông nhưng bằng một phương thức hoàn toàn khác, trước nay chưa bao giờ dùng: phương thức hoạt động hợp pháp.

Tức là tất cả chúng tôi sẽ “ra công khai”, sống công khai giữa xã hội miền Nam, trong vùng địch, với giấy tờ giả, tất nhiên, và sẽ chở vũ khí từ Bắc vào Nam trên những chiếc tàu cũng chạy công khai, với sổ sách, hồ sơ giả!

Những anh em chúng tôi được chọn về đây đều quê Nam bộ, phần lớn rút từ miền Nam ra Bắc để tham gia công tác ở lữ 125 từ đầu những năm 1960, cũng có đôi người như tôi là dân tập kết. Nhưng dẫu là tập kết hay rút ra hồi 60 thì chúng tôi đều đã có một thời gian khá dài sống ở miền Bắc, lại ở bộ đội, quen một lối sống hoàn toàn xa và khác với lối sống trong vùng địch chiếm, trong xã hội miền Nam.

Không ai trong chúng tôi từng có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp bí mật trong lòng địch. Từ tác phong, cách đi đứng, cư xử, xưng hô, ăn nói, chào hỏi, cả đến chơi bời nữa..., tất cả đều sẽ phải thay đổi, phải học lại hết.

Chúng tôi sẽ dùng những tàu đánh cá hoàn toàn giống như tàu đánh cá của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ, loại nhỏ, tối đa là 50 tấn, trang bị hoàn toàn như tàu đánh cá thật, chỉ có một chỗ khác: đáy tàu có hai lớp, giữa hai lớp ấy chèn đầy súng đạn của hậu phương lớn miền Bắc gửi cho chiến trường miền Nam.

Tháng 7-1972 anh Bảy Cứng đi thử chuyến đầu tiên. Trên hải phận miền Bắc, đi ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện nghi ngờ. Vào hải phận miền Nam thì phải ra vẻ thật thong dong đúng y như tàu đánh cá bình thường của dân. Đợi đến đêm, bất ngờ đâm vào bến Đầm Cùng. Thành công!

Tôi đi tiếp chuyến thứ hai, có Tư Kỷ làm máy trưởng, Hai Hoàng, Tám Ca và sáu anh em nữa. Chúng tôi xuất phát từ Đá Bạc, vòng qua cảng Dinh Cơ thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc. Lúc này B52 đang đánh Hải Phòng ráo riết nên ta phải xuống hàng ở Hải Nam. 1 giờ sáng thì gặp anh Tư Mau. Chiếc anh Tư Mau đi trước, tôi theo sau, cách chỉ năm ba trăm mét.

Gần tới Vũng Tàu thì gặp một tàu lớn của địch bám theo. Anh Tư Mau chủ động vòng tàu lại, gặp nó, trình giấy tờ đầy đủ. Nó không bắt, nhưng cũng không cho đi, bảo cứ chờ đấy đã. Anh Tư bảo chúng tôi: phải rất bình tĩnh. Nó chưa cho đi, ta cứ dừng lại thả lưới, coi như không có chuyện gì. Đêm, chúng tôi cho tàu ngủ lại.

Sáng, thấy tàu địch đã hơi lảng ra xa, chúng tôi làm ra vẻ thả một mẻ lưới. Tàu địch vẫn bám theo, mãi đến ngang Sài Gòn, nó mới chịu bỏ. Chúng tôi tiếp tục chạy đến ngang Trà Vinh, lại gặp một chiếc FCM của địch chặn lại xét hỏi. Anh Tư kẹp một xấp tiền vào cuốn sổ tàu đưa cho nó. Nó gật gù, trả lại cuốn sổ tàu và cho đi. Chúng tôi về tới sông Ông Đốc. Đây là một bến cá lớn, tàu thuyền của đồng bào và cả tàu địch rất nhiều. Chúng tôi cứ tự nhiên vào thả neo.

6 giờ tối chúng tôi nhổ neo, chạy về Đầm Cùng (căn cứ của 371). Chúng tôi cùng anh em bến bốc hàng, từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng, tất cả được 30 tấn. Cũng chính tại đây, Đầm Cùng, tôi đã gặp lại nhà tôi, Sáu Thùy. Cũng là nhờ anh Tư Mau cả đấy. Con người ấy tình nghĩa vô cùng...

Hạnh phúc ở Đầm Cùng

...Phương thức hoạt động của đoàn 371 như vậy là một phương thức rất đặc biệt, cho nên tổ chức phải rất chặt chẽ. Nguyên tắc là giữa 125, 962 và 371 phải cách biệt, không được biết đến nhau. Các bến cũng phải chia ra, bến của 962 riêng, bến của 371 riêng, tuyệt đối không dính dáng đến nhau về tổ chức, không được dùng chung bến.

Tôi về 371, mọi liên quan đến 962 cũng đều phải cắt hết. Còn Sáu Thùy thì éo le vậy, lại ở 962.

Khi tôi về Đầm Cùng, tức là miệt rừng U Minh Thượng phía tây mũi Cà Mau thì cô ấy lại đang ở bến Rạch Gốc chỗ anh Hai Dĩa, tức miệt rừng U Minh Hạ bên phía đông mũi Cà Mau. Mà không hề biết tin nhau...

Nhưng có một người biết: đó là anh Tư Mau. Chỉ có anh Tư Mau mới được quyền đôi khi qua lại quan hệ công tác với chỗ anh Hai Dĩa. Anh Tư đã gặp Sáu Thùy ở đấy.

Một hôm, tôi vừa đi một chuyến chở hàng về thì anh Tư gọi lên. Anh hỏi:

- Tao hỏi thật chuyện này nhé, mày với Sáu Thùy bây giờ thế nào? Còn gắn bó với nó không? Hay mất liên lạc từ đó đến giờ, tám năm rồi, đã gặp cô nào khác ngoài Hà Nội hay Hải Phòng?...

Tôi nói thật với anh Tư rằng quả thật tôi chẳng còn mấy hi vọng gặp lại Sáu Thùy nữa. Thời gian xa cách, quả có lúc gặp người này người khác ở ngoài Bắc, cũng toàn là những người tốt cả, có lúc tôi đã có ý định hay là gửi gắm cuộc đời mình ở đâu đó... Nhưng rồi không được, không sao được. Biết chuyện gặp lại Sáu Thùy gần như vô vọng, bây giờ làm nhiệm vụ đặc biệt kiểu này càng vô vọng hơn, nhưng quên thì dẫu cố lắm vẫn không quên nổi...

Anh Tư cười:

- Hay là tao điều nó về đây, muốn không?

- Nhưng cô ấy bây giờ ở đâu?

- Bên chỗ anh Hai Dĩa...

Anh Tư Mau đích thân sang bàn với anh Hai Dĩa. Sáu Thùy được lệnh rời 962 đi nhận công tác khác. Lúc đầu Sáu Thùy không chịu đi. Vì cô nghĩ chỉ có ở chỗ 962 may ra mới còn có ngày gặp lại tôi. Anh Hai Dĩa phải làm dữ lắm, cuối cùng cô ấy mới chịu. Chịu mà buồn lắm.
Anh Tư Mau về báo lại với tôi. Tôi mừng quá. Và ngóng chờ.

Cho đến một bữa, tháng 9-1972, khoảng 4 giờ chiều, tôi đang ở trong đồng thì có liên lạc chạy vô báo có cô Sáu Thùy đến tìm. Tôi vội chèo xuồng ra. Thì thấy cô ấy đang đứng trong lùm chuối chỗ anh Tư Mau nhìn ra. Anh Tư Mau không hề nói trước với cô ấy tôi ở đây, đến đây sẽ gặp tôi. Tôi vứt mái chèo, nhảy phóc lên bờ, chạy lên. Nhưng tôi chợt dừng lại. Tám năm. Tôi đã già đi nhiều. Đen cháy. Râu ria xồm xoàm. Liệu cô ấy có còn nhận ra?

... Nhưng mà cô ấy nhận ra ngay.

Con gái miền Tây ghê gớm lắm nghe các anh, dám ôm hôn bừa vậy giữa đồng trống, người ta đầy bốn chung quanh...

Đêm đó chúng tôi ở với nhau. Hai ngày sau anh Tư Mau và anh Năm Rẫy bấy giờ là chỉ huy phó tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Đoàn 962 gửi cho 1.000 đồng tiền ngụy. Bên này các anh cho 1.500 đồng.

Các anh bố trí cho vợ chồng chúng tôi một căn nhà hạnh phúc. Đó là căn lều của bộ phận cơ yếu, trong một lùm chuối. Chúng tôi sống với nhau được 15 ngày. Rồi tôi đưa Thùy về cơ quan của cô ấy tức bộ phận y tế ở hố Rạch Già. Còn tôi thì trở về bến của tôi ở hố Lồng Đèn.

Thỉnh thoảng một, hai tuần Thùy lại xin phép sang thăm tôi, một mình chèo xuồng, gặp nước xuôi phải chèo từ sáng sớm, chiều mới đến nơi. Gặp nước ngược thì nửa đêm mới đến. Mà có ở với nhau được nhiều đâu, một đêm, nửa đêm. Rồi cô ấy lại một mình chèo về. Mà biệt kích lội rừng thì nhan nhản. Mỗi lần tiễn cô ấy ra về, tôi lại thấp thỏm suốt ngày, chỉ sợ bất thần nghe một loạt súng nổ ở đâu đó, trên các kênh rạch chằng chịt trong rừng...

Ít lâu sau cô ấy có thai. Và chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Nam. Hôm cô ấy sinh, tôi băng rừng đi thăm, rồi lại lội bộ băng rừng suốt ba tiếng đồng hồ trở về để kịp đi một chuyến công tác khẩn.

Trong câu chuyện của mình, anh Tư Thắng nhắc đến nhiều người, nhiều hi sinh thầm lặng mà không kể ra thì anh không thể yên lòng. Như câu chuyện về cô bác sĩ trẻ ấy. Anh Thắng chỉ biết chị tên là Thùy Trâm người Hà Nội, chị chỉ huy bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, chị giấu đi một nỗi đau riêng và trụ bám “gan lì đến kỳ lạ, kỳ quặc suốt chục năm trời trên vùng đất hẹp bị đánh nát như băm ấy”, cho đến ngày chị hi sinh...

Có cố gắng đến mấy thì mãi mãi vẫn còn những người anh hùng vô danh thôi! Người trong cuộc chiến đấu ngày ấy còn nói vậy thì người hôm nay biết tìm họ ở đâu?

Cuộc sống đã quên và đang tiếp tục lãng quên... Bởi thế câu chuyện về một hòn đảo mang tên một người anh hùng là một câu chuyện hiếm hoi lạ lùng... Anh Tư Thắng bảo, bây giờ may ra chỉ còn một người sống sót để kể lại.

Sự tích đảo Phan Vinh

Vẫn là mặt biển xanh mênh mông, phẳng lì ấy. Nhìn kỹ lắm, mãi mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời, một vệt nhỏ nhô lên khỏi mặt nước mong manh như một vệt móng tay.

Chong mắt nhìn thật kỹ nữa, hóa ra cái vệt móng tay mong manh trên đường chân trời ấy là một hòn đảo. Một hòn đảo san hô, nhỏ xíu giữa đại dương mênh mông, một hòn đảo đang hình thành, chưa hình thành xong, lúc triều lên thì biến mất dưới mặt nước, lúc triều thấp lại nhô lên... Một chút Tổ quốc ở nơi xa xôi. Một đảo nhỏ, trong số những đảo nhỏ nhất của quần đảo Trường Sa.

Hòn đảo bé tẹo ấy có tên là đảo Phan Vinh. Trên tấm hải đồ lưu giữ ở phòng tham mưu lữ đoàn hải quân 125 có ghi tên đảo ấy.

Trong số hàng nghìn, hay bao nhiêu nghìn hòn đảo lớn nhỏ ở nước ta, có lẽ đây là hòn đảo duy nhất mang tên họ một con người. Theo chỗ chúng tôi dò tìm, hỏi han kỹ nhiều nơi, không có một quyết định nào của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt tên như vậy cho hòn đảo này cả.

Thì ra trong đời sống hiện đại của chúng ta, các truyền thuyết vẫn tiếp tục ra đời và tồn tại. Và cũng như tự ngàn xưa, truyền thuyết là do nhân dân vô danh sáng tạo ra. Các truyền thuyết bao giờ cũng khuyết danh. Tên Phan Vinh được đặt cho hòn đảo nhỏ trong dải Trường Sa phảng phất một không khí truyền thuyết.

Tác giả của nó là những người lính bí mật trên con đường biển Đông. Một người nào đó, trên một chuyến đi biển xa nào đó, có thể là một chuyến đi bến Rạch Gốc, Kiến Vàng, Sông Đốc, Gành Hào Cà Mau, nhưng lại phải đi vòng vo đến tận sát Philippines, Sumatra, Singapore, Malaysia... đã ghé qua hòn đảo nhỏ chơ vơ hoang vắng này. Và nhớ bạn, anh lấy tên người bạn đã hi sinh mà gọi thành tên đảo...

Rồi người ta truyền nhau, người này truyền người kia, và cái cách gọi tình cờ nhưng sâu lắng của người lính biển nọ cứ đi vào lòng người, in sâu ở đấy, ngày càng sâu, không gì xóa đi được nữa.

Nhưng trong số những chiến sĩ biển Đông đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bí mật trên con đường mòn kỳ lạ này thời chống Mỹ, còn có hàng trăm người khác mà có lẽ sự nghiệp và hành vi anh hùng chẳng hề thua kém, sao chỉ có tên một người đã trở thành tên một hòn đảo của Tổ quốc? Hẳn con người này phải có điều gì để được đọng lại sâu hơn cả, đậm hơn cả, sắc hơn cả trong tâm trí mọi người...

Người hôm nay còn có thể nói với chúng ta về Phan Vinh - theo lời chỉ dẫn của anh Tư Thắng - là Nguyễn Long An, chúng tôi đã tìm gặp được anh ở Hải Phòng...

Nguyễn Long An kể:

Một chân dung phác thảo

Đúng như các anh nói, ở đơn vị chúng tôi trong cuộc chiến đấu biển Đông thời ấy không thiếu gì những người anh hùng. Nhưng nếu được phép chỉ chọn một người mà tất cả chúng tôi cảm phục nhất, tôn trọng nhất, lại yêu quí gần gũi nhất thì tôi chắc ai cũng sẽ chọn anh Phan Vinh.

Anh ấy dũng cảm vô song, tất nhiên rồi, tài năng nữa, tất nhiên rồi, nhưng có lẽ điều này đối với tất cả chúng tôi còn ấn tượng đậm hơn: đó là một con người vô cùng hào hiệp, một cách hết sức tự nhiên, như là trời sinh ra vốn vậy, không hề cố tình, cố gắng, sắp đặt, suy tính. Tôi không biết diễn đạt thế nào nữa. Thôi, chỉ xin nói thế này: gặp một người chỉ huy như vậy, lập tức thấy mình có thể giao phó cả sinh mệnh của mình cho anh ấy không chút phân vân. Gặp một người bạn như vậy có thể yên tâm suốt đời...

Cũng có thể nói anh Phan Vinh có một tính cách đặc biệt mạnh mẽ, rõ rệt: bao giờ cũng hết mình. Chơi thì chơi hết mình, làm việc hết mình, đối với bạn hết mình, chiến đấu hết mình, mà trong công tác lại hết sức nghiêm khắc, lại đẹp trai, thông minh.

Anh ấy quê Điện Bàn, Quảng Nam. Tham gia công tác từ năm 16 tuổi, làm liên lạc cho huyện ủy... Năm tôi được gặp anh, anh khoảng 30. Tôi có một may mắn lớn: vào lính, được gặp ngay một người chỉ huy là anh. Tôi thuộc lớp chiến sĩ quê miền Bắc, tức là lớp lính nghĩa vụ quân sự đầu tiên được bổ sung về 125.

Lớp chúng tôi có học hành khá, nhưng kinh nghiệm từng trải thì hoàn toàn chưa có chút gì. Chuyến đầu tiên tôi đi tàu 43, làm báo vụ, vào Cà Mau. Máy bay, tàu chiến địch bám riết, hoang mang thì tôi không đến nỗi hoang mang, nhưng rất lúng túng. Nhờ các anh đi trước chỉ vẽ ân cần.

Chuyến thứ hai của tôi chính là chuyến Vũng Rô.

Rồi đến chuyến tàu 235 do anh Phan Vinh chỉ huy đi bến Hòn Hèo, Hòn Khói, Khánh Hòa, đúng dịp tổng tấn công Mậu Thân.

Bước vào trận đánh lớn

Anh Phan Vinh là người được giao điều khiển chiếc tàu cao tốc đầu tiên do Trung Quốc viện trợ. Thủy thủ đoàn được thành lập gồm 21 người tuyển chọn từ các đơn vị về. Kéo sang Trung Quốc học một thời gian, anh Vinh học rất xuất sắc, cán bộ hải quân Trung Quốc cũng phải phục. Xong lại kéo về VN, cải dạng tàu thành tàu đánh cá gần giống như tàu đánh cá của Nhật, sơn trắng.

Đơn vị còn được bổ sung thêm ba đồng chí ở lữ 126 tức đặc công nước, chúng tôi học cả kỹ thuật đặc công đánh nhau dưới nước, và cả kỹ thuật bộ binh đánh nhau trên bờ. Đặc biệt, tôi chú ý trong suốt thời gian chuẩn bị, anh Vinh có ý thức tạo cho thủy thủ đoàn 21 người chúng tôi gắn bó với nhau như một gia đình, mà anh Vinh là người anh lớn.

Sau này tôi mới hiểu điều ấy cần thiết cho chúng tôi biết chừng nào; khi lâm vào hoàn cảnh chiến đấu quyết liệt, mất còn, chúng tôi đã thành một tập thể thật sự ruột thịt.

Đúng Tết Mậu Thân chúng tôi nhận nhiệm vụ, và cho cơ động tàu sang một bến của Trung Quốc gần biên giới ta, cho tàu ta cập lẫn với một số tàu cao tốc của Trung Quốc để đánh lạc hướng máy bay trinh sát Mỹ.

Ngày 10-2-1968 chúng tôi lên đường. Nhưng đến cách bờ biển Khánh Hòa khoảng trên 10 hải lý, nhận được điện từ chỉ huy sở ở Thủy Nguyên báo đã lộ, phải quay về bến Hải Khẩu, Trung Quốc.

Ngày 27-2 lại lên đường.

Theo dõi tình hình địch, chúng tôi nhận thấy lần này chúng hành động có khác. Máy bay trinh sát chúng bay rất cao, ngày bốn hay năm lần, từ phía Philippines hay Guam sang và quay trở lại. Tàu chiến Mỹ không bám theo ta liên tục mà cứ độ tám tiếng đồng hồ mới đảo qua một lần trước mũi tàu ta, nhưng không chạy gần.

22 giờ đêm 27-2 anh Vinh quyết định từ ngoài khơi xa cho tàu mở tốc lực đâm thẳng vào hải phận miền Nam. 23 giờ thì bắt được đảo Hòn Tre. Thấy rõ tám tàu địch giăng thành hai tuyến trong và ngoài. Nhìn thấy cả đèn điện thành phố Nha Trang sáng trưng. Anh Vinh cho tàu lách qua hàng tàu địch ngăn chặn, đâm vào bến. Rất đúng bến Hòn Hèo. Mười hai giờ khuya, chúng tôi bắt đầu thả hàng. Thả được tất cả 30 tấn, phần lớn là súng và đạn B40, B41. Tất cả anh em trên tàu đều lao vào thả hàng, cố gắng thả cho được thật nhiều.

Lúc này anh Vinh nói:

- Ta len vào đến đây, tàu địch đã giăng hai lớp sau lưng rồi, phải nói thật điều này: khả năng tàu ta thoát ra khơi được rất ít. Chắc đến 90% là phải chiến đấu. Có thể hi sinh lớn, nhưng lúc này chiến trường đang tổng tấn công, cần súng đạn hơn bao giờ hết. Ta thả được càng nhiều hàng cho anh em trong này càng quí...

Đến 1g sáng thả hàng xong. Chúng tôi điện báo kết quả về sở chỉ huy lữ đoàn và nhận ngay được điện của anh Phúc chính ủy:

“Lữ đoàn biểu dương các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Chờ các đồng chí trở ra an toàn thắng lợi”.

Một lát sau lại nhận được điện lữ đoàn thông báo tàu anh Tư Thắng ở Quảng Ngãi và tàu anh Ba Râu ở Trà Vinh đang bị địch đánh.

Anh Phan Vinh bảo:

- Ta cũng sẵn sàng đi thôi.

Chúng tôi bắt đầu quay tàu ra. Biển ở đây luồng lạch rất ác, có một rạch sâu bề ngang đúng 40m, chỉ cần lệch một chút là tàu cưỡi lên bãi san hô ngay. Hai chiếc tàu địch đã án ngữ ngay giữa luồng.

Anh Vinh hét lệnh chiến đấu. Vừa nổ súng vừa tiến. Chuyến này tôi đứng máy số một. Nghe lệnh anh Vinh, tôi vừa đẩy cần ly hợp tiến thì nghe toàn tàu rung lên dữ dội. Địch tập trung bắn ngay vào khoang máy quyết liệt. Trên boong, ta cũng nổ tất cả các cỡ súng... Mười phút, máy tàu ta tê liệt. Anh Trương Văn Mùi, máy trưởng, đứng cạnh tôi, bị trúng một viên đạn vào ngực, hi sinh ngay, ngã vào cần gạt, khiến tàu dạt luôn vào bờ.

Các tàu địch áp lại, lúc này có đến hàng chục chiếc. Đánh nhau suốt một tiếng đồng hồ.

Lúc luyện tập ở nhà, anh Vinh đã dự kiến mấy phương án: thả hàng xong là cơ bản hoàn thành nhiệm vụ rồi, nếu sau đó lộ, bắt buộc phải chiến đấu, không ra khơi được thì cho tàu lao vào quân cảng của địch ở Nha Trang, cho nổ tàu phá tung cảng. Hoặc không vào được cảng thì đâm thẳng tàu ta vào một tàu địch to nhất, nổ tàu, phá tan tàu địch và hi sinh...

Nhưng bây giờ những phương án ấy không còn thực hiện được nữa: máy tàu đã bị tê liệt, tàu không còn cơ động được. Chỉ còn một phương án cuối cùng: phá tàu, rút lên bờ chiến đấu.

Cuộc chiến đấu cuối cùng của người anh hùng

Lúc này ở dưới khoang máy chỉ còn tôi (Nguyễn Long An) và anh Thứ, người Hải Dương, cũng là thợ máy. Sau một tiếng đồng hồ chiến đấu, bây giờ nghe súng đã lặng đi.

Thứ đã bị thương ở tay, tôi băng cho Thứ, nghe xương cánh tay anh lạo xạo. Tôi cũng bị thương ở chân, cũng chưa kịp sờ kỹ xem vết thương cụ thể thế nào, nhìn xuống chỉ thấy máu bê bết, cứ tạm buộc túm ở đùi.

Phá tàu

Tôi bảo Thứ:

- Nếu anh em đã hi sinh hết, thì nhiệm vụ phá tàu chỉ còn anh với tôi. Chúng ta đã thề trên tàu còn một người còn hơi thở thì quyết không để tàu sa vào tay địch.

Bộc phá đặt ở khoang mũi và khoang lái. Thứ giữ tay cho tôi đu người xuống khoang mũi, ở đấy có một khối bộc phá 800 kilô. Tôi quyết định bấm kíp hẹn giờ 1 tiếng. Tính như vậy lúc lên boong tìm thấy anh em nào bị thương, sống sót, có thể đưa anh em ra khỏi tàu trước khi tàu nổ.

Kíp hẹn giờ, chiếc đồng hồ nhỏ xíu, tôi bấm rồi, rất lạ, bốn bề ầm ĩ - lúc này không nghe súng ta bắn nữa nhưng địch vẫn bắn - vậy mà tôi nghe rõ tiếng tích tắc... Vừa xong thì thấy anh Vinh từ trên đài chỉ huy xuống. Anh Vinh bị thương, băng trắng toát cả đầu.

Anh bảo anh em ta chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên tổn thất nhiều. Tôi báo cáo đã bấm kíp nổ khối bộc phá 800 kilô. Anh bảo: “Được”. Rồi tự tay anh đi đặt tiếp 12 kíp nổ nữa. Anh bảo: “Cho chắc chắn”. Anh Vinh rất lạ, tình hình đến nước này mà tôi thấy anh vẫn bình tĩnh như không. Anh đi thu dọn gọn gàng mọi thứ, đốt hết giấy tờ, tài liệu.

Rồi tất cả chúng tôi lên boong và lần lượt rời tàu. Lúc này bọn địch đã hơi dãn ra xa. Chắc chúng sợ ta cho nổ tàu thì chúng cũng tiêu. Chúng tôi lợi dụng tình hình đó dìu nhau bơi vào bờ. Vừa chạm chân đến chỗ cạn thì khối bộc phá đầu tiên nổ. Tan khói, quay lại nhìn kỹ, thấy đuôi tàu vẫn nổi.

Tôi nằm chờ đến 30 phút nữa, thật ra lúc này rất lo, nếu khối bộc phá còn lại bị tịt ngòi thì tôi phải làm cách sao đây bơi trở ra tàu, dùng ngòi nổ khác quyết phá cho nổ kỳ hết. Ba mươi phút sau thì khối bộc phá cuối cùng nổ. Toàn bộ tàu hoàn toàn biến mất. Anh em chúng tôi lên bờ.

Giữa vòng vây của địch

Đến 6 giờ sáng thì nghe ầm ầm, rồi chỉ một lúc đầy trời trực thăng. Chúng bắt đầu đổ quân. Bây giờ đang mùa khô, cả đảo chỉ độc một loại cây gai lúp xúp, lá rụng hết, còn trơ gai cằn cỗi. Mới tảng sáng trời đã nắng chói chang. Chúng tôi phải bứt cỏ che bớt lưỡi lê súng cho đỡ sáng và bố trí phòng ngự vòng tròn. Ước lượng địch khoảng hơn 2 tiểu đoàn, toàn bọn Nam Triều Tiên.

Lúc đầu tôi nghĩ thế trận của anh em chúng tôi như thế này là chỉ còn một nước tử chiến và tất sẽ hi sinh hết: chúng tôi chỉ một nhúm người ở giữa, địch vây kín bốn bề. Chúng tôi chiếm được đỉnh đồi, có ưu thế hơn, nên có thể kéo dài cầm cự, nhưng cũng chỉ là kéo dài thôi chứ không hi vọng gì thoát được vòng vây.

Nhưng một lát sau thì bỗng phát hiện một tình huống bất ngờ: bên trái chúng tôi, cách không xa, chợt nghe tiếng AK nổ. Đúng là anh Phan Vinh rồi. Tiếng súng sắc gọn, dứt khoát, từng loạt rất ngắn, có khi chỉ điểm xạ từng viên một, đanh, ác, quyết liệt. Anh Phan Vinh đánh giặc từ năm 13 tuổi, trưởng thành từ vùng địch hậu nổi tiếng Điện Bàn, Quảng Nam.

Nhạy cảm quân sự của anh rất tinh, sắc. Nghe tiếng súng từ sáng đến giờ, tuy không nhìn thấy nhưng anh đã nhận định bộ phận anh em chúng tôi do anh Nhi (thuyền phó) chỉ huy đang trụ trên đỉnh đồi. Vậy anh và anh Thứ, cả hai đều đã bị thương nhưng vẫn còn sức chiến đấu, sẽ tạo thành một mũi bên sườn phối hợp cùng chúng tôi và thế trận sẽ trở nên khác hẳn.

Nhờ có hai mũi hỗ trợ nhau như vậy chúng tôi trụ suốt được một ngày. Đêm, lợi dụng pháo sáng, chúng tôi tìm cách luồn qua vòng vây địch. Bọn địch đóng rất dày, hầm hố đào chằng chịt, chỉ cách nhau 5-7m một hố... Đến khoảng 10 giờ đêm thì chúng tôi chuyển sang được một đồi khác, cách chừng 100m.

Chúng tôi cứ lần về hướng tây mà đi, di chuyển hết sức chậm vì tất cả đều bị thương, địch thì lùng sục ráo riết. Tuyệt không còn gì ăn. Mấy ngày đầu đói ghê gớm nhưng rồi cũng lạ, cái ăn tự nó dần dần không đòi hỏi nữa, chỉ có cái khát hành hạ. Phải tự uống nước giải của chính mình... Đến ngày thứ bảy, thật ra chúng tôi mới di chuyển được 600 hay 700m, lại chạm địch, đánh nhau một trận. Rồi lui được lên một ngọn đồi có đá.

Bấy giờ cậu Khung, Mai Văn Khung, người quê Thái Bình, chiến sĩ hàng hải, khát quá không chịu nổi nữa, tự đái ra mà uống, nhưng rặn mãi cũng không còn giọt nào. Khung xin mò xuống suối tìm nước. Nghe có tiếng nước róc rách thật, càng kích thích cái khát dữ dội. Khung vừa đi được khoảng 30m thì nghe súng nổ. Chạm địch rồi! Tôi ôm súng lao xuống cố cứu Khung. Tôi bắn liền mấy loạt, ném cả lựu đạn nữa, nhưng khi bò xuống đến nơi thì không còn thấy dấu vết gì nữa. Khung đã bị địch bắt!

Bọn địch bắt được Khung, đoán được hướng đi của ta nên lại ráo riết tổ chức tấn công truy đuổi. Anh Nhi bảo:

- Tình thế này ta ở lại đây là sẽ bị hủy diệt hết. Bây giờ giao đồng chí An làm đoàn trưởng dẫn anh em tiếp tục đi tìm liên lạc với địa phương. Còn tôi ở lại đây, bám tình hình và nếu địch đuổi theo thì sẽ cố đánh chặn.

Chúng tôi đành chia tay anh Nhi ra đi. Tôi lục lọi khắp các túi, tất cả “gia tài” chỉ còn mấy viên vitamin B1 đưa lại cho anh Nhi...

Chúng tôi lại lần mò đi, quanh quẩn suốt ba ngày đêm. Hòn Hèo là bán đảo, nên loay hoay thế nào một đêm lại ra sát mép biển và lần qua một hòn đảo nhỏ khác.

Ngày thứ 10 chúng tôi nằm giữa một bãi cát chơi vơi, thế nào lại đúng một ổ kiến đỏ. May quá, tôi đã nghe các anh lớn phổ biến kinh nghiệm cứ bắt luôn kiến mà ăn, nhai rau ráu, không ngờ tỉnh ra. Đêm lại mò xuống mép biển bắt được mấy con ốc, đập ra ăn sống...
Ngày thứ 11 vẫn không thấy tăm hơi anh em địa phương. Thỉnh thoảng nghe súng nổ đâu đó, không xa. Tôi bảo:

- Chỗ nào địch nổ súng, tức là ở đó có lực lượng ta. Ta cứ hướng súng nổ mà đi, nhất định sẽ tìm ra.

Anh em đồng ý. Chúng tôi đi, đến khoảng 3 hay 4 giờ chiều thì thấy một bóng người ngoài mép biển, ở khu vực về sau này mới biết là xã Ninh Diêm.

Tôi cho anh em dừng lại, bố trí sẵn sàng yểm trợ, còn tôi một mình mò xuống. Tôi bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải, và Mai, chiến sĩ điện công: nếu là địch, chúng bắt tôi thì cứ bắn bừa vào. Diệt được địch cho anh em thoát, tôi có hi sinh còn hơn bị bắt.

Xuống đến gần, thấy rõ một người đàn ông mặc quần áo bà ba. Anh ta hoảng hốt bỏ chạy. Tôi phải ra oai, kéo cò, dọa. Rồi hô ám hiệu. Anh ta trả lời đúng. Hỏi ra, anh ta thuộc lực lượng an ninh huyện.

Tôi gọi tất cả anh em xuống. Anh ta cho chúng tôi mỗi người mấy quả ổi. Anh em các bộ phận của huyện đóng bí mật rải rác ở vùng núi Hòn Hèo, Hòn Khói này cũng rất đói, toàn phải ăn rau rừng. Anh này đang đi tìm hái ổi rừng ăn trừ bữa thì gặp chúng tôi. Anh em chúng tôi nhịn đói cả chục ngày rồi, bây giờ ăn ổi vào té re gần chết...

Chúng tôi về chỗ cơ quan an ninh huyện, rồi từ đó bắt được liên lạc với bộ phận bến do anh Kiến phụ trách. Mới biết 12 ngày nay các đồng chí ở bến cũng tỏa đi tìm chúng tôi mà không gặp.

Tôi cùng các đồng chí ở bến trở lại những ngọn đồi mấy hôm trước để tìm các đồng chí còn thiếu. Trở lại chỗ anh Nhi thấy súng ống bị đập phá tan tành nhưng không tìm được anh Nhi. Đi một đoạn xa nữa thì tìm thấy xác anh Phan Vinh và anh Thứ.

Quanh chỗ anh Vinh nằm rất nhiều dấu vết bông băng đỏ thấm máu khô và súng đạn của bọn Nam Triều Tiêu vỡ nát. Còn anh Vinh, nhìn tư thế, có thể đoán ra anh đã đánh đến viên đạn cuối cùng, và anh đã rút chốt quả lựu đạn cuối cùng để bọn giặc xô lại định bắt sống thì thả cần nổ lựu đạn, diệt địch và hi sinh...

Chúng tôi chôn cất các anh ngay tại chỗ. Núi đá, nhưng chúng tôi cố đào thật sâu. Và trên mỗi nấm mộ cắm một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi quê quán từng người. Những anh em miền Nam thì ghi quê hương thật. Còn anh em miền Bắc thì ghi quê hương kết nghĩa...

Chỗ anh Vinh nằm, trên đồi cao, nhìn thẳng ra biển Đông...

***

Nguyễn Long An nói: “Trận ấy chúng tôi hi sinh 12 đồng chí, mất tích một và bị địch bắt một”.

Có một câu hỏi: “Có đắt quá không? Một sự hi sinh quá lớn như vậy, để thả được chừng 30 tấn súng đạn xuống biển, rồi về sau anh em ở bến mò vớt lên chừng được một nửa, mươi, mươi lăm tấn?”.

Các anh ạ, những câu hỏi như vậy chỉ đặt ra sau chiến tranh khi mọi sự đã yên bình, và chúng ta có thể ngồi với nhau bình tĩnh, thong thả, bên mâm rượu thế này... Còn ngày ấy đối với chúng ta, đối với chúng tôi, tôi nhớ không có câu hỏi ấy. Đối với anh Phan Vinh không có câu hỏi ấy...


Sau cơn mưa trời lại sáng

Vài tư liệu về Đường Hồ Chí Minh trên biển
- Đường Hồ Chí Minh trên biển, tuyến vận tải biển chiến lược từ miền Bắc vào một số tỉnh miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ được mở chính thức theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng với lực lượng vận tải nòng cốt là Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125 thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân), còn được gọi là Đoàn Tàu không số, đơn vị 2 lần Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
- Theo chỉ thị của Bộ Chính trị (7/1961), lần lượt một số tỉnh miền Nam cử các đội thuyền ra Bắc nhận vũ khí và trở về an toàn (Bến Tre 11/6/1961, Cà Mau 7/8/1961, Bà Rịa 18/8/1961,...)
-Ngày 14/9/1962 tàu Phương Đông 1 của Đoàn 759 thực hiện thành công chuyến vận chuyển đầu tiên từ cảng Đồ Sơn đến bến Vàm Lũng (tỉnh Cà Mau).
- Đến tháng 2/1965, toàn tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển đã thực hiện thành công 88 chuyến với hơn 5.000 tấn vũ khí được vận chuyển cho các chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, Liên khu 5). Đặc biệt ngày 29/11/1964, Đoàn Tàu không số đã vận chuyển vũ khí vào Bà Rịa để trang bị cho một trung đoàn bộ binh kịp tham gia chiến dịch Bình Giã (2/12/1964 - 3/1/1965).
- Ngày 15/2/1965, sau sự kiện Vũng Rô, Mĩ và quân đội ngụy Sài Gòn mở chiến dịch "Phiên chợ" để ngăn chặn. Từ đó tuyến đường được mở rộng ra hải phận quốc tế đến gần vùng biển các nước Philippin, Malaixia, Inđônêxia.
- Đến năm 1973, Đoàn Tàu không số đã tổ chức được 1.879 lượt tàu thuyền, vượt hàng triệu hải lí trong sự bao vây, phong tỏa gắt gao của địch, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí, trang bị kĩ thuật, thuốc chữa bệnh, 80.026 cán bộ chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mĩ và quân ngụy Sài Gòn.
- Từ tháng 2/1972 Đoàn Tàu không số lại được giao thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ mới: rà phá thủy lôi ở vùng biển Hải Phòng - Đông Bắc (1973), vận chuyển bộ đội, xe tăng và các loại vũ khí, khí tài từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975; tham gia giải phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa thuộc quần đảo Trường Sa (4/1975), Cù Lao Thu thuộc tỉnh Ninh Thuận và đón các chiến sĩ cách mạng từ Côn Đảo trở về đất liền (tháng 4 và 5/1975).
- Đoàn có 3 tập thể (tàu 42, tàu 41, tàu 154) và 5 cá nhân (Bông Văn Dĩa, Nguyễn Phan Vinh (liệt sĩ), Nguyễn Văn Hiệu (liệt sĩ), Hồ Đức Thắng, Đặng Văn Thanh) được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
- Đoàn trưởng và chính ủy đầu tiên: Đoàn Hồng Phước, Võ Huy Phúc

Cửa biển Lộc An- điểm hẹn đường Hồ Chí Minh trên biển
[/b]

Cửa biển Lộc An thuộc địa phận hai xã Lộc An, huyện Long Đất và Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Di tích lịch sử cách mạng cửa biển Lộc An trải dài 15km thuộc hạ lưu sông Ray, con sông bắt nguồn từ suối Gia Liên. Dọc hai bên sông Ray là màu xanh bạt ngàn của khu rừng nguyên sinh nhiệt đới ngập mặn.

Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cửa biển Lộc An đã trở thành tuyến giao thông nối liền giữa miền Bắc và miền Đông Nam Bộ. Vào tháng 9/1946 tại cửa biển Hồ Tràm, xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, cách Lộc An 5km về phía bắc, chuyến hàng của Trung ương chở vũ khí đã cập bến an toàn góp phần quan trọng giúp quân và dân tỉnh Bà Rịa gây dựng, phát triển lực lượng vũ trang đánh thực dân Pháp. Từ 1952 vùng biển này là địa bàn hoạt động của tiểu đoàn 230 - tiểu đoàn vận chuyển hàng chiến lược cho miền Đông Nam Bộ.

Đầu 1961, Trung ương Cục miền Nam, sau khi nghiên cứu địa hình đã quyết định chọn cửa biển Lộc An làm điểm đón tàu vận chuyển vũ khí của “Đường Hồ Chí Minh trên biển” từ miền Bắc vào.

Chuyến tàu đầu tiên vào cửa biển Lộc An của Đoàn Tàu không số là chuyến tàu gỗ mang số hiệu 41 chổ 18 tấn vũ khí do đ/c Lê Văn Một làm thuyền trưởng và đ/c Đặng Văn Thanh làm chính trị viên được khởi hành đêm 26/9/1963 từ cảng Bính Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng) chạy ngược về phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) rồi quay mũi tàu theo hải phận quốc tế để tới phía Nam. Rạng sáng 2/10/1963 tàu cập bến Lộc An. Khi con nước cường đang lên mạnh, thuyền trưởng Lê Văn Một cho nổ máy tăng ga hết tốc lực để chạy đua với con nước vì trời đã sắp sáng. Gần tới bến thì một cồn cát ngầm nhô lên chặn mũi con tàu lại. Trời sáng dần. Ban chỉ huy đoàn vận chuyển đã huy động lực lượng chuyển toàn bộ số vũ khí về địa điểm đã qui định; đến 10 giờ trưa thì số hàng trên tàu đã giải tỏa an toàn. Lúc này, chiếc máy bay trinh sát của địch quần đảo nhiều lần, nhưng chúng chỉ thấy chiếc ghe mắc cạn và mấy ngư dân ở trần đang phơi lưới!

Toàn bộ số vũ khí của chuyến tàu này đã bổ sung kịp thời cho các đơn vị vũ trang của tỉnh Bà Rịa-Long Khánh mở rộng vùng giải phóng và góp phần giành thắng lợi trong chiến dịch Bình Giã (2/12/1964-3/1/1965), đòn tiến công quan trọng đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy trên chiến trường miền Nam.

Năm chiến sĩ còn lại trong trận chiến đấu năm 1968 của tàu 235 tại vùng biển Hòn Hèo (Nha Trang): Lê Duy Mai, Hà Minh Thật, Nguyễn Long An, Nguyễn Văn Phong, Lâm Quang Tuyến - Ảnh tư liệu.

Dẫu bây giờ ở nơi này, nơi kia người ta dựng lên hàng trăm, hàng ngìn cái miếu thờ và trong miếu có bày đủ lễ vật, kể cả của ngon vật lạ...thì theo lời anh Hà Minh Thật, năm trong số 18 thuỷ thủ sống sót trên con tàu không số (TKS) 235 do người anh hùng thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đánh nhau với nhiều tàu chiến Mỹ- ngụy ở Hòn Hèo (Nha Trang) đêm 28.2.1968, cách đây 41 năm, thì cái miếu thờ của má Phú Yên lập trên rẩy bắp, cùng với những cái miếu của các “bác tài” (lái xe) xây dựng dọc trên Đèo Cả (đèo nằm tại ranh giới giữa tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa) là "linh thiêng” và có ý nghĩa nhất. Bởi nó là những cái “kho hậu cần” cung cấp cho các chiến sĩ quân giải phóng nằm phục kích quân giặc hay khi họ lạc đơn vị; như trường hợp năm thuỷ thủ trên con tàu không số, đó là các anh: Nguyễn Long An, Lâm Quang Tuyến, Lê Duy Mai, Nguyễn Văn Phong và Hà Minh Thật.

Bằng giọng trầm ấm, sâu lắng và biết ơn, anh Hà Minh Thật kể tiếp câu chuyện đầy cảm động về cái miếu thờ:

Thời gian đầu người nào người ấy vết thương còn rỉ máu, mình mẩy còn đau nên chưa ai lê bước ra khỏi mép biển, đành phải cố thủ trong cái hang đá nằm dưới chân Đèo Cả. Nguồn sống chính của các anh lúc này nhờ vào những ngọn lá, đọt chuối và những lễ vật dâng cúng trong cái miếu thờ của các “bác tài” dựng nên nơi những đoạn đườg thường xảy ra tai nặn. Trong những cái miếu thờ đó có đủ các loại hoa quả, nắm cơm, gói bánh và có cả gói muối trắng, lon nước ngọt...nhờ thế mà năm thuỷ thủ mới có cái ăn hàng ngày. Thời gian sau, địch phát hiện ra được một phần đầu mũi tàu của ta do hai anh Vinh và Thứ (sĩ quan máy) cảm tử ở lại giật bộc phá bay lên nằm trên núi Bà Nam, cách hang các anh ở khoảng chừng 800m, thì tụi địch ngày nào cũng đem quân đến càn. Vì thế các anh ai nấy cố sức lê bước vào “căn cứ” mới ở sâu trong rừng Phú Yên. Sống trong rừng tuy an toàn nhưng lại xa nguồn nước biển, xa các miếu thờ (kho hậu cần” trên Đèo Cả...

Để có nước muối rửa vết thương cho đồng đội và có miếng ăn hàng ngày cho năm anh em, anh Hà Minh Thật, lúc ấy là người khoẻ nhất hội, phải bằng mọi giá đi tìm cho ra “kho hậu cần” mới. Và tình cờ một buổi sáng, Thật đang trèo hái quả trên một ngọn cây cao trong rừng, thì nhìn thấy dưới chân núi có một cái miếu thờ trong rẩy của đồng bào. Và tối đó Thật rủ anh Vũ Long An rẽ cây rừng, luồn qua những đồi lau lách, xuống tận cái miếu và các anh đã “vớ” được gói bánh bích quy, một nải chuối đem về “căn cứ” cho các bạn cùng ăn. Rồi đêm hôm sau, đêm hôm sau nữa; lại tiếp đến cái đêm hôm sau...hai anh lần xuống cái “kho hậu cần” nhận đồ tiếp tế của người chủ rẩy về ăn, lần này có thêm mấy lon sữa bò...

...Dẫu biết hai con “ma rừng” đích thị là “người trần mắt thịt”, nhưng người chủ rẫy vẫn chưa biết rõ là người đằng mình hay người đằng lính cộng hoà? “Mà lính cộng hoà (lính nguỵ) tràn được vào rẫy thì chúng sẽ càn hết cả gốc lẫn ngọn, chứ bọn chúng không chỉ lượm trái, đào cũ nên đây chỉ là những chiến sĩ giải phóng của ta” (người chủ rẫy nghĩ thế)! Nhưng để xác minh cho tường tận, một hôm người chủ rẫy ở lại đến tận khuya để được tiếp xúc với người rừng. Và đêm ấy An, Thật bò xuống, rồi lần đến miếu thờ, bổng có một bà má già xuất hiện trong lùm cây chủ động hỏi: “Các con có phải là người đằng mình không?” Tình huống đột ngột quá, nhưng các anh biết tiếng người má đã già nên có phần vững tin hơn, bèn đáp lễ: “Thưa má, chúng con là người đằng mình ạ!”.

Nghe tiếng nói, má biết các anh đều là người miền Bắc, nên mạnh dạn sáp lại gần, nói như khóc: “Các con lạc rừng lâu ngày chưa?” Hai anh đáp lễ: “Thưa má, bốn tháng rồi ạ”...

Từ đêm ấy trở đi trong cái miếu thờ của má Phú Yên không chỉ có lương thực, thực phẩm mà còn có cả những gói bông băng và thuốc chữa bệnh nữa. Có đầy đủ nguồn tiếp tế của má, năm thuỷ thủ ai nấy ngày càng khoẻ ra, vết thương mấy anh em bị nặng đã lên da non, gân cốt đã trở lại thế “cường tráng”. Và tối hôm đó cả năm người kéo xuống rẫy đễ tạ ơn má và xin má một ít muối ăn, lương thực và thuốc chữa bệnh cùng với một tấm bản đồ Phú Yên để các anh có cơ sở luồn sâu trong rừng, tìm đến đường giao liên trên dãy Trường Sơn...

Thể theo nguyện vọng của các con, mấy ngày má Phú Yên về đồng bằng chuẩn bị đầy đủ các mặt hàng đó, rồi má tự gùi lên rẫy tập kết tất cả các thứ vào cái miếu thờ. Và theo đúng hẹn, các anh xuống miếu nhận hàng và lên đường luôn trong đêm trăng thượng tuần sáng vằng vặc trên những ngọn cây, đỉnh núi...

Chuyện lâm nạn của năm anh em thuỷ thủ TKS 235, và cái miếu thờ của má Phú Yên dưới chân Đèo Cả ngày ấy đến nay đã 41 năm. Và má Phú Yên ngày đó của chúng con giờ chắc không còn nữa, nhưng hình ảnh má thì chúng con vẫn khắc ghi vào trong tim. Và muôn đời chúng con không quên cái miếu thờ của má trên rẩy, và nhớ cả những cái miếu thờ của các “bác tài” lập nên trên Đèo Cả.
Chuyện kể về "Đường mòn trên biển": huyền thoại những con tàu

Trong 10 năm từ 1962 đến 1972, tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần một trăm lượt con tàu bí mật của Đoàn 125 xuất phát, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, phương tiện và hàng trăm cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần làm nên nhiều chiến công vang dội. Bến Đồ Sơn còn được gọi mật danh là “K.15”.

Nơi xuất phát những con tàu bí mật vào Nam
[/b]
Ngày 18/8/1960, một con tàu gỗ gắn máy thủy động cơ xuất phát từ Cồn Tra (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, Bến Tre) mở đường đầu tiên (thời kỳ chống Mỹ) ra Bắc để xin chi viện vũ khí. Trên tàu này gồm có 8 đồng chí, do ông Lê Công là Bí thư chi bộ kiêm thuyền trưởng. Mật khẩu vượt biển vào lãnh hải miền Bắc xã hội chủ nghĩa là: “Đơn vị 106B đi tìm anh 3D”. Sau 4 ngày đêm vượt trùng dương, tàu của ông Lê Công đến miền Bắc an toàn, cuộc hải hành trên được hoàn toàn giữ kín. Sau khi ở lại Bắc gần hai năm để học đường lối, chủ trương của Đảng các thành viên trên tàu Lê Công được đưa đến bến Đồ Sơn (K.15) chờ bố trí tàu vận chuyển vũ khí vào Nam.
Tại Cà Mau, ngày 20/7/1961, ông Bông Văn Dĩa (người Cà Mau) được Khu ủy Khu 8 và Tỉnh ủy Cà Mau cử ra Bắc cũng bằng con đường biển trên để liên hệ Trung ương chở vũ khí vào Cà Mau. Cũng giống như tàu của ông Lê Công, số chiến sĩ trên tàu của nhà cách mạng Bông Văn Dĩa được bố trí đến bến Đồ Sơn, chờ lệnh xuất phát về Nam.
Tại bến Đồ Sơn, đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy mang tên “Phương Đông 1” chở 30 tấn vũ khí do thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, xuất phát lên đường vào Nam. Trước khi xuất phát, đích thân các nhà lãnh đạo Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đến bến cảng Đồ Sơn động viên cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Đồng chí Phạm Hùng nói: “Các đồng chí là những người đầu tiên mở ra con đường biển Bắc - Nam này. Nó cũng giống như trên Trường Sơn kia, các đồng chí là những người tiên phong đi khai sơn phá thạch”. Sau 5 ngày vượt biển Đông, ngày 16/10/1962, tàu đến cửa Bồ Đề và cặp bến Vàm Lũng (xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) an toàn. Đây là chuyến chở vũ khí đầu tiên vào Nam bằng đường biển và con đường vận tải chiến lược trên biển Đông chính thức ra đời. Sau này, ông Bông Văn Dĩa được tuyên dương Anh hùng các LLVT Nhân dân.
Kế đến, ngày 11/11/1962, tàu của ông Lê Công được lệnh trở vào Nam, chở theo 75 tấn vũ khí. Ngày 18/11/1962, tàu cặp bến an toàn tại Vàm Lũng (Cà Mau). Đây là chuyến thứ hai chở vũ khí vào Nam thành công sau chuyến đầu tiên “Phương Đông 1” của ông BôngVăn Dĩa. Tàu trên còn có mật danh là "Phương Đông 2”.
Sau những chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên do chính các chiến sĩ từ miền Nam xin chi viện, từ cuối năm 1962 đến 1972, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần 100 lượt tàu của Đoàn 125 HQ xuất phát “chở hàng” chi viện cho chiến trường miền Nam. Điểm đến là các bến: Tân Ân (Cà Mau), Thạnh Phong (Bến Tre), Vũng Rô (Phú Yên), Lộc An (Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu), Đức Phổ, Sa Kỳ, Ba Làng An (Quảng Ngãi). Tất cả đã vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí và hàng trăm cán bộ cốt cán; góp phần làm nên nhiều chiến thắng vang dội. Hiện nay, di tích còn lại của bến Đồ Sơn (K.15) là 15 trụ bê-tông cầu cảng, cách mép bờ khoảng 30m. Còn trên bờ còn lại là một số nền móng kho hàng, bể nước.

Những bến tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam ít được nhắc đến
[/b]
Ngoài những bến đã được báo chí nhắc đến nhiều như Thạnh Phong (Bến Tre), Vàm Lũng (Cà Mau), Vũng Rô (Phú Yên)... thì bến đến Lộc An và các bến đến tại Quảng Ngãi vẫn lặng lẽ theo năm tháng dù rằng trước đó, các bến tiếp nhận này đã góp phần rất lớn vào các chiến công tại miền Đông Nam bộ và Khu 5.
Bến Lộc An nay thuộc xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa-Vũng Tàu). Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 3 chuyến tàu cặp bến thành công, vận chuyển 109 tấn vũ khí, kịp thời trang bị cho quân dân các tỉnh miền Đông, Khu 6 tham gia các chiến dịch, góp phần làm nên chiến thắng như trận Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng (1965). Có thể kể đến" Chuyến 1: Ngày 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 gồm 12 chiến sĩ do thuyền trưởng Lê Văn Một (vào Nam lần hai) và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy, chở 18 tấn vũ khí vào bến Lộc An. 3 giờ sáng ngày 2/10/1963, tàu cặp bến an toàn, lực lượng địa phương (Đoàn 1500) đã chờ sẵn ở bến để bốc hàng. Lúc này thủy triều bắt đầu rút làm tàu mắc cạn, gần đó là đồn địch (đồn Phước Hải); nhưng cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đã mưu trí, dũng cảm bảo vệ an toàn con tàu và bến bãi. Chuyến 2: Ngày 29/11/1964, tàu mang số hiệu 56, gồm 16 chiến sĩ do thuyền trưởng Nguyễn Quốc Thắng và chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Tàu 56 chở 44 tấn vũ khí, cặp bến Lộc An an toàn, và chuyến hàng chiến lược này đã kịp thời trang bị cho các đơn vị chủ lực miền Đông, Khu 6 tham gia mở đợt 2 chiến dịch Bình Giã (1/1965). Chuyến 3: Vẫn tàu 56. Tàu do thuyền trưởng Lê Quốc Thân và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, chở 47 tấn vũ khí xuất phát vào ngày 27/1/1965 và cặp bến Lộc An an toàn vào đêm 1/2/1965. Số vũ khí chở vào lần này tiếp tục trang bị cho quân dân Khu 6 tham gia giai đoạn 3 chiến dịch Bình Giã. Ngày 7/3/1965, chiến dịch Bình Giã kết thúc thắng lợi đã làm thất bại cơ bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam.
Nhưng các bến đến tại Quảng Ngãi mới thật mang nhiều ấn tượng. Tại đây, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 4 chuyến (2 chuyến vào bến Đức Phổ, 1 chuyến vào bến Sa Kỳ, 1 chuyến vào bến Ba Làng An). Cả 4 chuyến đều gặp địch, cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã anh dũng chiến đấu, hủy tàu để không lọt vào tay địch và sau đó anh em thủy thủ vượt ngược Trường Sơn ra miền Bắc trở về đơn vị. Chuyến 1 (vào Đức Phổ - Quảng Ngãi): Ngày 19/11/1966, tàu mang số hiệu 41 được lệnh chở 59 tấn vũ khí vào Đức Phổ, trên tàu có 17 chiến sĩ, do thuyền trưởng Hồ Đắc Thanh và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy. Trên đường vượt biển, gặp thời tiết xấu nên tàu phải dừng lại nhiều lần trên biển. Đến đêm 23/11, tàu tiếp tục đi và đêm 26/11 tàu đến bến qui định, thả hàng trong điều kiện sóng to gió lớn. Rạng sáng 27/11, lúc tàu chuẩn bị quay ra thì bị mắc cạn. Để giữ bí mật, Chi ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu. Có điều tàu nổ không đúng thời gian đặt chất nổ làm 2 chiến sĩ hy sinh là Trần Nhợ và DươngVăn Lộc. Trong khi đó 15 thành viên còn lại, đã vào được đến bờ, sau đó tất cả đi bằng đường bộ, vượt dãy Trường Sơn và mãi đến 4 tháng sau mới trở về đơn vị an toàn. Chuyến 2 (vào Sa Kỳ): Ngày 14/3/1967, tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn, được lệnh chở 50 tấn vũ khí vào Sa Kỳ - Quảng Ngãi. 2 giờ sáng ngày 18/3/1967, khi tàu còn cách Sa Kỳ vài chục hải lý, anh em trên tàu thấy tàu địch bám theo tàu ta, còn trên không thì máy bay địch quần thảo, thả pháo sáng liên hồi, làm sáng rực cả một vùng biển đêm. Trước tình hình nguy cấp trên, anh em thủy thủ trên tàu quyết định phá vòng vây đưa tàu vào bến. Khi phá vòng vây, 3 tàu chiến địch bám theo, tàu 43 buộc phải nổ súng và cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra sau đó. Tàu chiến địch gọi điện cho nhiều máy báy đến yểm trợ. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra 3 giờ liền, tàu ta bị trúng đạn nặng, tình thế mỗi lúc thêm bất lợi, nếu tiếp tục chiến đấu, trời sẽ sáng và nhất định địch sẽ tăng cường lực lượng vây tàu ta. Nhận định vậy nên cấp ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch. Hủy tàu xong, anh em thủy thủ bơi vào bờ an toàn rồi tìm đường trở ra Bắc. Chuyến 3 (vào Ba Làng An): Ngày 6/7/1967, tàu 148 gồm 18 đồng chí, do đồng chí thuyền trưởng
Nguyễn Tấn Ích và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy, chở 56 tấn vũ khí vào Quảng Ngãi. Vào đêm 11/7, trên đường đi, tàu 148 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây, tàu 148 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An. Địch đánh tàu ta bị thương nặng, Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và thuyền phó Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh trong lúc chiến đấu. Ta không phá hủy được tàu và địch cho quân đến kéo tàu đi. Anh em thủy thủ còn lại bơi được vào bờ rồi đi bộ trở ra miền Bắc. Chuyến 4 (chuyến lần thứ hai vào Đức Phổ): Ngày 27/2/1968, tàu 43 gồm 16 đồng chí được lệnh chở 37 tấn vũ khí vào bến Đức Phổ (Đội tàu 43, sau chuyến đi lần trước đã chiến đấu anh dũng với địch, hủy tàu và trở lại miền Bắc anh em trong tàu được nhận một tàu mới, vẫn mang tên 43). Tàu 43 vẫn do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày 29/2, khi tàu 43 đến gần bến Đức Phổ, cách bờ khoảng chục hải lý thì gặp cùng lúc 6 tàu địch và trực thăng tấn công tàu ta. Anh em trên tàu tổ chức đánh trả. Ta bắn rơi 1 trực thăng của địch, trong khi ta đã hy sinh 3 đồng chí: Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai. Biết lực lượng địch đông, nếu tiếp tục chiến đấu địch có khả năng cướp tàu ta, nên chỉ huy lệnh cho anh em rút lên bờ và hủy tàu. Anh em còn lại trở về miền Bắc an toàn. Đây là lần thứ hai anh em chỉ huy, thủy thủ tàu 43 lại đi bộ, vượt Trường Sơn trở ra Bắc.
Từ năm 1968 đến 1972, Đoàn 125 HQ chuyển hướng, tập trung vận chuyển vũ khí Bắc - Nam vào sâu tận biển Nam bộ, chủ yếu đến bến Thạnh Phong (Bến Tre) và Tân Ân (Cà Mau). Đến ngày 21/11/1970, tàu 176 do đồng chí Lê Xuân Ngọc làm thuyền trưởng và đồng chí Trần Thành Trung là Chính trị viên chỉ huy bị lộ khi sắp vào bến Thạnh Phong (hủy tàu, ta hy sinh 10 đồng chí) từ đó, các tàu vận chuyển chuyển hẳn vào cặp bến ở các bến thuộc xã Tân Ân. Tại các bến ở Thạnh Phong và Cà Mau, còn là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, anh dũng của cán bộ, chiến sĩ vận tải Đoàn 125 HQ anh hùng và quân dân địa phương với máy bay, tàu chiến, các cuộc hành quân qui mô lớn của địch để bảo vệ tàu và hàng. Các trận chiến đấu đó là những tấm gương cao đẹp về phẩm chất và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Hải quân, đồng thời nói lên tính chất khốc liệt, đầy khó khăn nguy hiểm của công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần đưa đến ngày đại thắng 30/4/1975.
Tác giả: Phan Lữ Hoàng Hà
(Theo "Việt Báo.vn")

Chào đồng đội!
Thắc mắc của đồng đội chính là niềm kiêu hãnh, tự hào của Đoàn TKS. Tôi chưa biết cách số hóa văn bản lên nhưng Bác tìm giúp Hướng dẫn số 971/HD-CT ngày 06 tháng 8 năm 2008 của Tổng cục chính trị QDND Việt Nam về việc Khen thưởng Huân huy chương chiến sỹ giải phóng đối với cán bộ chiến sỹ Đoàn 125 " Đoàn tàu không số". Trong đó quy định cán bộ chiến sỹ trực tiếp làm nhiệm vụ trên tàu không số có ít nhất một chuyến chở hàng vào các bến ở miền Nam ( từ cửa Tùng trở vào ) trong thời gian từ 30/4/1975 trở về trước được tặng Huân huy chương chiến sỹ giải phóng theo quy định về tặng Huân huy chương CSGP. Bộ tư lệnh HQ đã tổ chức lễ trao Huân huy chương chiến sỹ giải phóng đối cho chúng tôi nhân ngày truyền thống 23/10/2008 tại BTL Hải quân ( Đại diện các đơn vị, cá nhân ) còn hội HN chúng tôi ra bến K15 Đồ Sơn nơi con tàu không số dầu tiên xuất phát làm lễ dâng hương các anh hùng liệt sỹ và chụp ảnh lưu niệm. Xin pot tấm ảnh đó để các đồng đội mừng cho chúng tôi. Xin cảm ơn đồng đội. Xin khất đồng đội văn bản và huy chương của tôi vào dịp gần đây để tôi còn học cách số hóa nhé.



No comments:

Post a Comment