Thursday, July 29, 2010

Đường Hồ Chí Minh trên biển - phần 2

Điều không lý giải được

Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa lý giải được về sự sống của 17 cán bộ, thuỷ thủ trên con tàu không số (TKS) mang mật danh 56 trong đêm Tết Mậu Thân 1968, cách đây 41 năm?
Đó là điều hết sức ngạc nhiên, bởi đêm đó có rất nhiềuc tàu chiến Mỹ, nguỵ đồng loạt bật đèn pha cực mạnh, đồng loạt nổ súng và đồng loạt triển khai đội hình vòng
vây TKS 56!. Và, hình như đêm giao thừa ấy chúng đói khát lắm, nên tàu nào cũng muốn chạy hết tốc lực để được đến nuốt “con mồi” sớm nhất...
Nhưng để thoát được những phút giây căng thẳng đó; để không chết trong đêm Tết ấy, trước hết chúng tôi rất biết ơn người chính trị viên (CTV) có cái tên cứng như hòn sỏi: Đỗ Như Sạn, anh là lính hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, hiện về hưu hưởng lương thiếu tá ở quê: Thiệu Sơn, Thiệu Hoá, ( Thanh Hoá).


Đêm chết chóc


Tàu không số “56” là một trong 4 con tàu nhận nhiệm vụ chở vũ khí vào tiếp tế cho quân và dân miền Nam trong dịp tết Mậu Thân 1968. Bến vào của tàu 56 là cửa biển Lộ Giao (Bình Định). Đêm ấy gió mùa nỗi lên rất to, sóng bạc đầu phủ trắng xoá mặt biển. Con tàu 56 chẳng khác nào chiếc võ tre bấp bênh trong dòng nước xoáy. Nhưng đã quá quen với điều kiện tác chiến nên các thuỷ thủ ai nấy đều kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nếu địch phát hiện ra vị trí thả hàng của ta (phương châm vào các bến Khu 5: hàng được thả xuống toạ độ, sau đó du kích đưa thuyền đánh cá ra vớt chở vào bờ)). Tàu 56 vẫn thẳng hướng bến Lộ Giao, và theo như lời thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba, còn có biệt danh Ba Râu (anh nhiều râu nên anh em thường gọi Ba Râu, nay đã mất vì bệnh hiểm nghèo) nếu không có gì cản trở thì tàu 56 sẽ vào bến trả hàng đúng giờ “G”. Nhưng thật bất ngờ, tàu đang ngon trớn và chỉ cách điểm thả hàng chừng 25 hải lý, thì trước hướng tiến của tàu xuất hiện những ánh đèn pha cực mạnh quét tới. Ban chỉ huy hội ý chớp nhoáng và quyết định cho tàu quay sang hướng khác; nhưng hướng khác cũng bị chúng nó chặn; lại một hướng khác nữa...cũng không tránh khỏi những con mắt cú võ...
- Tàu ta đã lọt vào vòng vây của chúng- thuyền trưởng nói.
- Ta phải hết sức bình tỉnh- CTV nhắc nhở.
- Hành động đối phó? thuyền truởng hỏi ban chỉ huy:
- Nếu chúng nó cố tình bắn tiêu diệt? ta đánh trả quyết liệt!
Những con tàu chiến Mĩ, nguỵ ngày một đến gần, nhiều ánh đèn pha cực mạnh như muốn khoét sâu vào các khoang hàng xem “tàu đánh cá” chở những gì?
Trước tình huống bất ngờ ấy, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba nói như hét với các cán bộ, thuỷ thủ: “Chuẩn bị chiến đấu!” Thực thi lệnh của chỉ huy, các vị trí khẩn trương tra kíp nổ vào các khối thuốc TNT, các quả bom chìm, khói mù và triển khai các khẩu súng: ĐKZ, B40, hoả tiển vác vai, lựu đạn chống tăng...sẵn sàng chờ lệnh! Tôi và hàng hải số 2 Hồ Văn Kiêm (nay là Đại tá, Lữ Đoàn trưởng TKS-đã nghỉ hưu) dưới sự chỉ huy của thuỷ thủ trưởng Nguyễn Văn Hoa, nhanh chóng hoàn tất mọi công việc và chỉ chờ lệnh điểm hoả!
Những khẩu pháo 14 ly 5, pháo 37 ly của địch không ngừng khạc ra những hòn đạn đỏ quạch tuôn tới tấp đến tàu 56. Nhưng phần nhiều chúng bắn vòng cầu chứ không bắn thẳng vào mục tiêu nên tàu 56 vẫn “sống” khoẻ. Ngoài tiếng súng, những ánh đèn pha cực mạnh mỏng, sắc như lưỡi gươm; cũng có thể ví như những tia chớp thè cái lưởi dài thật dẽ sợ. Tất cả, tất cả những thứ vũ khí đó, nó đều tập trung đến tàu 56.
Mặc! Tàu 56 vẫn kiên định lập trường thi gan với chúng. Đạn từ những con tàu Tuần dương lại tuôn xối xã đến tàu ta, nhiều thuỷ đã bị thương, y tá Trần Văn Việt không quản nguy hiểm chạy đến các vị trí băng bó, cầm máu cho từng người. Thuyền trưởng Ba nhìn xuống mặt boong thấy một số thuỷ thủ áo quần đã thấm máu, anh bặm môi, tay dơ cao định chém xuống và hô...bắn! Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp giữ tay thuyền trưởng lại, nói như thét:
- Khoan! Anh Ba!
- Hãy chờ thêm ít phút!
- Đợi đến bao giờ nữa?
- Nó chưa chủ trương bắn tiêu diệt ta!
- Sao đồng chí biết?
- Nếu nó bắn tiêu diệt, thì chúng đã bắn ngay loạt đạn đầu!
- Thế CTV để anh em bị thương bao nhiêu người nữa? CTV Sạn chùng giọng: “Tôi biết anh rất thương đồng đội. Nhưng nhiệm vụ của ta không lấy chiến đấu làm chính, mà là mưu mẹo đánh lừa địch, giữ bí mật đến cùng con đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam”! Lại những quả đạn pháo 57 ly bắn đến tàu 56. Do cự li quá gần nên tiếng nổ đã kích nổi tàu 56 lên khỏi mặt nước, khiến cho cả khối thép uốn mình run bần bật theo vòng xoáy của chân vịt. Nguy cơ các khối bộc phá có thể tự kích nổ như một số tàu đã gặp! CTV Đỗ Như Sạn đề nghị với ban chỉ huy, là cho các vị trí rút kíp nổ ra khỏi các khối thuốc.Tàu địch lại bắn rát hơn.CTV Đỗ Như Sạn lại trấn an: “Các đồng chí cứ bình tỉnh, nó bắn chưa chắc đã trúng, trúng chưa chắc đã chết!” Chúng tôi ai nấy như được tiếp thêm sức mạnh nên vững tin hơn. Đêm càng về khuya trời càng lạnh, sóng gió càng lớn khiến ai nấy run cầm cập, một số anh em yếu sóng nôn thốc nôn tháo.Tôi nhìn qua CTV Sạn thấy anh ói ra nước vàng, tự dưng nước mắt tôi chảy ra... Lại một chiếc Tuần dương nữa đến gần. Đêm tối chúng tôi nhìn nó như hòn đảo trôi, chạy cắt ngang hướng tiến tàu 56. Thuyền trưởng Ba thấy “ngon ăn” bèn nói với chiến sỹ hàng hải Phạm Phong Đê (anh đã hy sinh 1972), là cho máy tăng hết tốc độ lao thẳng vào nó! Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp ngăn lại...Chúng lại tiếp tục bắn uy hiếp và đánh tín hiệu hỏi tàu ta mang quốc tịch nước nào? Chạy từ đâu tới? Chở hàng gì? Bắt ta phải dừng máy để chúng sang kiểm tra?...CTV Đỗ Như Sạn nói dứt khoát với báo vụ số 1: Nghuyễn Văn Nghiệp, là không được trả lời! Nếu trả lời thì nó sẽ truy tận gốc, trốc tận rễ, rồi vô tình ta tự bạch với nó là “con ở bụi này”...
Nhưng các thủy thủ đều nghĩ, sớm muộn gì thì cũng đánh nhau! Cũng hy sinh thôi, bởi chúng đã bắt quả tang tàu “đánh cá” của ta đã vào sâu trong bến Lộ Giao- vùng quản lý của quân giải phóng. Thế nhưng CTV Sạn, với phương châm còn đánh lừa được địch thì còn thi gan, đấu trí với nó. Một số thuỷ thủ lại trúng đạn thù nhưng chưa nặng, còn chiến đấu tốt. Tâm lý lúc này ai cũng muốn được nổ súng, ai cũng muốn được làm nên một phút huy hoàng trước khi chết. Nhưng đối với CTV Đỗ Như Sạn, thì anh cho cái chết lúc này chưa cần thiết; bởi nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam đang cần đến những con người và những con tàu... Mặt khác nói đến cái chết sợ anh em hoang mang ảnh hưởng đến sức chiến
đấu, nên anh giữ bí mật cả những cái túi nilon (quan tài lính TKS) mang theo chuyến
này; đến cả những bức điện từ căn cứ gữi đến thông báo về chiến sự của các tàu: T235 vào bến Vũng Rô, T165 vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) và T43 vào bến Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã bị định bắn chìm, có tàu đã hy sinh không còn một ai...
Dẫu biết ngàn cân treo sợi tóc, sự sống của con tàu và 17 thuyền viên rất mong manh, nhưng CTV Sạn vẫn đặt nềm tin vào thắng lợi! Nếu thắng được trận này- anh nghĩ, ta sẽ rút ra được bài học “ứng xử trên biển đông” cho các con tàu trong đơn vị, lấy đó làm phương châm hành động.cho những chuyến đi sau “Sự kiện Vũng Rô-1968”, mà anh em hay nói đùa: “một đi không trở lại”...
Trời càng sáng dần, tàu địch đã bớt hung hăng, thuyền trưởng Ba cho tàu ta quay ra biển đông, đi hướng 90 độ. Theo sự chỉ đạo của Căn cứ và đối sách của cấp uỷ tàu: Khẩn trương kéo những tấm lưới đánh cá phủ lên các khẩu pháo, phủ kín các hầm hàng; đồng thời cho thuỷ thủ lấy những con cá gỗ ra móc lên các mảng lưới để đánh lừa địch.Các thuỷ thủ còn kéo lá cờ “mặt trời” của Nhật lên trên cột cao nhất ..Làm xong mọi công việc nghi trang thì trời sáng bảnh. Lúc này bầy tàu chiến đã tản bớt, chỉ con 3 tàu Tuần dương, sơn màu ghi xán, to như những hòn đảo nổi, và ba chiếc máy bay đen sì của Hạm đội 7 Mĩ vẫn bám theo “con mồi”; nếu bây giờ trí óc tôi không lẫn, thì các con tàu đó có số hiệu: 2882, 2884 và 2886: (qua bài viết này, những người lính Mĩ nếu có điều kiện và còn sống, thì xin liên hệ gặp lại nhau cho vui- N.V).
Theo chỉ đảo của căn cứ, tàu 56 vẫn tiếp tục chạy ra biển đông mà hướng đến là đảo Ô-Ki-Na-Oa Nhật Bản. Tuy thế 3 tàu Tuần dương và mấy chiếc máy bay Mĩ vẫn đeo bám dai như đỉa đói, làm cho những chiến binh trên những chiến hạm đó chừng như đã quá mệt mỏi, nên các pháo thủ đều nằm gục lên bệ pháo, chẳng thèm nhìn ngó đến tàu chúng tôi. Dẫu thế, các thuỷ thủ của ta vẫn đề cao cảnh giác: vừa thả câu, vừa vá lưới và luôn thường trực bên các khẩu pháo để khi cần là nổ súng...
Hết một đêm căng thẳng, đến một ngày sóng gió phủ phàng, tàu 56 vẫn vững vàng hành tiến. Lại một ngày đêm nữa trôi qua. Rồi một ngày đêm nữa...Đến sáng ngày thứ tư, khi tàu 56 sắp vào vùng biển Nhật Bản, thì 3 con tàu Tuần dương và mấy chiếc phi cơ chiến đấu Mĩ mới từ bỏ hẳn con mồi.
Từ ngày thứ tư trở đi, chúng tôi ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, bởi đã thoát được cái chết. Tàu 56 lại quay hướng về căn cứ mang theo 17 thuỷ thủ, tuy có bị thương nhưng sức khoẻ vẫn còn có khả năng nhận nhiệm vụ đi tiếp...

Khúc hồi tưởng




Tôi Trần Hậu Vệ, tuổi 19 với màu áo lính Hải quân!

"Xưa thời sóng gió đại dương,
Say mê với những chiến trường gần xa;
Nay về thì tuổi đã già,
Biết làm chi để giúp nhà hỡi em?!"


Thấm thoát từ cái đêm không chết ấy đến hôm nay đã 41 năm, 17 cán bộ chiến sĩ trên con TKS 56 ngày đó, và các năm sau này... nhiều người đã hy sinh; nhiều người đã mất vì tuổi già, và nhiều người cũng đã qua đời vì bệnh hiểm nghèo... Số sống đến giờ chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nhưng mà cuộc sống của “lính không số” thì quá ư gian nan và thiệt thòi. CTV Đỗ Như Sạn của tôi cũng không ngoài sự truân chuyên vất vã đó: Anh lên bờ (1975) với quân hàm đại uý, trên điều động về làm chính uỷ trường kĩ thuật Cát Lái, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đến đầu thập niên những năm 1980: khi “phong trào bằng cấp nước ngoài” thịnh hành, thì anh được trên cho về nghỉ chế độ hưu ở quê nhà, quân hàm hưởng lương tương đương thiếu tá. Sau bao nhiêu năm biền biệt xa quê, xa gia đình vợ con nay mới được về đoàn tụ. Nhưng nỗi mừng vui vừa chớm khoé miệng thì đã vội tắt: Người vợ thân yêu của anh lâm bệnh nặng và đã qua đời ngay trong năm đó. Thế là cảnh “gà trống nuôi con” trong những năm kinh tế ngặt nghèo, khiến cho thể xác anh teo tóp, đôi mắt anh mờ đục, hai tai anh nghểnh ngãng...Tuy vậy nhưng với cái khí chất của người CTV có bản lĩnh vững vàng, anh đã giữ vững tay lái cho con “ thuyền gia đình” vượt lên tất cả...
Với tôi: nỗi thương nhớ, sự kính phục và cả sự biết ơn người CTV Đỗ Như Sạn thì không bao giờ quên được! Nhờ có anh “giữ vựng ngọn cờ ” mà anh em chúng tôi thoát được cái chết trong đêm Tết ấy. Thế nhưng nhớ anh để mà nhớ, thương anh để mà thương chứ giúp anh về kinh tế thì chúng tôi cũng không hơn gì đại uý Đỗ Như Sạn:
“Chín năm kháng chiến gian lao,
Hai mốt năm đánh Mĩ bốn sao gạch dài,
Về quê cày cuốc miệt mài,
Vẫn nghe tiếng sóng bên tai thì thầm”...


Sông Hồng: một chiều giông 7. 2009
(Trần Hậu Vệ CCB tàu KS)

Ảnh chụp năm 1964, một số chiến sĩ tàu 56 sau chuyến Bà Rịa về, chụp kỷ niệm cùng các thủ trưởng đoàn TKS (đoàn 125): Hàng đứng, từ phải sang, thứ nhất là CTV Đỗ Như Sạn, thứ 3 là Chỉnh ủy Võ Huy Phúc, thứ 5 Lữ đoàn trưởng Huỳnh Công Đạo, đứng cuối là Trưởng phòng tuyên huấn Nguyễn Văn Phát; Hàng ngồi, từ phải qua, thứ 2 là thuỷ thủ Trần Hậu Vệ, thứ 3 là thuỷ thủ Hồ Văn Kiêm (nay là đại tá Lữ trưởng 125 đã về hưu). Các thuỷ thủ còn lại đều đi tàu 121....



14 người lính của tau 43 đã được chị Đặng Thùy Trâm chăm sóc chữa trị tại bẹnh xá Đức Phổ. Người ngồi thứ hai từ trái qua phải là ông Lư Công Hào
Kí ức của một người lính Tàu không số
Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân. Gần 40 năm đã qua, những ký ức về chị Thùy vẫn vẹn nguyên trong ông, hơn thế ông đã nâng niu gìn giữ những kỷ vật của chị Thùy.
Gọi là "tàu không số" nhưng thật ra các tàu đều có số hiệu tại đơn vị, chỉ khi tiến hành thâm nhập vào miền Nam để tiếp tế vũ khí mới tùy theo từng vùng biển đi qua mà con tàu có thể mang nhiều số hiệu khác nhau.
Con tàu vận tải vũ khí vào Đức Phổ mang số hiệu 43 là một trong bốn con tàu tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam dịp tổng tấn công xuân Mậu Thân 1968 (ba chiếc kia là tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy vào Hòn Hèo, Khánh Hòa; tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy đi vào bến Vàm Lũng, Cà Mau; và tàu 56 do thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba - Ba Râu - chỉ huy vào bến Lô Giao, Bình Định).
Bốn tàu ra đi nhưng chỉ có tàu 56 trở về, ba chiếc còn lại đều đụng độ với đối phương và hủy tàu. Trận đánh của tàu 43 sau này được thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng kể lại với nhà văn Nguyên Ngọc khi ông đi làm bộ phim Đường mòn trên biển Đông và trong câu chuyện ấy thuyền trưởng Thắng đã kể về nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm...
Và từ sợi dây mong manh ấy nối dài đến khi những trang nhật ký của chị Thùy "trở về" vào năm ngoái thì miền ký ức của người lính tàu không số chợt bừng thức. Ông Hào đã ngắm nhìn lại cuốn sổ nhỏ ngày xưa, tấm hình chị Thùy chụp khi còn là học sinh ở Hà Nội.
Sau trận chiến không cân sức với đối phương khi tàu vừa chuẩn bị quay mũi lao vào bến để xuống hàng ở Đức Phổ, ban chỉ huy quyết định hủy tàu, có ba anh em trên tàu hi sinh là Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai, còn 14 chiến sĩ nhưng bị thương mất 11 người, chính bà con ở thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp đã cưu mang đùm bọc anh em trong những ngày nguy khốn đó.
Sau mười ngày đêm nằm dưới hầm bí mật, trên mặt đất đối phương ập vào làng càn quét truy tìm nhưng không sao tìm thấy dấu vết. Thật kỳ lạ, lòng dân nơi đây đã che chở an toàn cho tất cả. Sau đó các thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay lại, đêm thứ ba mới thoát được. Hơn một ngày rưỡi xuyên rừng, vào chiều tối hôm sau các anh em thủy thủ của tàu 43 mới đến được bệnh xá của chị Thùy.
Một tháng ở bệnh viện
Ký ức của ông Hào vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh của bệnh xá giữa rừng ấy. Hai ngày sau khi các chiến sĩ “đoàn tàu không số” lên đến bệnh xá thì chị Thùy mới đi công tác về.
Nhìn vết thương của anh em, chị không cầm được nước mắt: “Các anh đã về đến đây cứ yên tâm điều trị, nhanh chóng phục hồi sức khỏe để còn tiếp tục chiến đấu”.
Chiến trường Khu 5 cũng như cả chiến trường miền Nam sau Tết Mậu Thân vô cùng khốn khó và khốc liệt. Những thương binh như ông Hào được tiêu chuẩn là ăn cơm với rau má chấm cá chượp, còn chị Thùy và các anh em trong bệnh xá phải ăn độn khoai lang.
Nạn đói lại hoành hành bà con đồng bào miền tây Quảng Ngãi, những ngày ấy toàn bệnh xá đều thực hiện khẩu lệnh: Vì đồng bào Ba Tơ, mỗi người dành nửa khẩu phần ăn của mình để cứu đói cho bà con dân tộc thiểu số.
Những chuyến đi về đồng bằng nhận lương thực, thuốc men lên để chăm sóc thương binh dạo ấy vô cùng nguy hiểm vì bị phục kích, rình rập, bơ gạo mang lên đến bệnh xá lại chia ra một nửa để cứu đói cho đồng bào.
Gian khó vậy nhưng ai cũng lạc quan, niềm lạc quan bắt đầu từ chị Thùy, từ tấm lòng của chị, những tâm sự của chị và cả những dự định tương lai của chị.
Ngay trong những ngày ấy, chị Thùy viết lưu bút cho người lính trẻ Lưu Công Hào mà chị coi như đứa em trai, chị đã mơ đến một ngày không xa “chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát, và một buổi chiều nào đó trên bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ...)”.
Gần 40 năm rồi, ông Hào vẫn nhớ những buổi trưa, tranh thủ ánh nắng hiếm hoi chị Thùy mang dụng cụ y tế, bông băng ra phơi. Sợ máy bay phát hiện, ông Hào trèo lên cây kéo kín tán lá ngụy trang, tiếng chị Thùy nhẹ nhàng nhắc: “Cẩn thận Hào nghe, cẩn thận kẻo ngã đấy em nhé”...
Những ngày sau đó, khi một số anh em thương binh hồi phục, các anh vào rừng chặt những cây gỗ thẳng, đều đặn làm thành những chiếc ghế nhỏ tặng bệnh xá, làm những lan can để anh em thương binh vịn tay tập đi lại, làm cả một khu nghỉ ngơi cho thương binh (những chiếc ghế này đã được chị nhắc đến trong những dòng nhật ký hôm chia tay). Đó là những ngày rất đẹp trong ký ức anh lính trẻ Lưu Công Hào dù mỗi ngày phải luôn đối mặt với muôn vàn hiểm nguy.
Một tháng điều trị ở bệnh xá qua mau, rồi một buổi chiều anh em thủy thủ của “đoàn tàu không số” nhận lệnh lên đường, không biết tự bao giờ chị Thùy đã chuẩn bị đầy đủ tăng, võng, balô, ruột tượng đựng gạo... để anh em vượt Trường Sơn ra Bắc, trở lại với những con tàu để tiếp tục chi viện vũ khí cho chiến trường Nam bộ.
Ngày chia tay, chị Thùy đã nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Công Hào ngoài những dòng lưu bút là địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé thăm...
Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng công việc của những người lính tàu không số luôn là một bí mật đặc biệt, ông Hào không thể đến thăm gia đình chị Thùy và cô em gái Phương Trâm như chị Thùy dặn dò.
Rồi những chuyến đi vào Nam tiếp tục cho đến ngày hòa bình. Những dòng chữ và tấm hình chị Thùy tặng ông Hào vẫn gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng. Bây giờ, cuốn sổ tay bé tí với những dòng lưu bút, tấm hình chị Thùy tặng đã được ông Hào trao lại cho Bảo tàng Hải quân (tại thành phố Hải Phòng), đặt ở một vị trí trang trọng, thảng hoặc ông Hào lại vào nhìn để nhớ về một phần đời không thể nào quên.
LÊ ĐỨC DỤC
(Theo Việt báo.vn)

Hồi kí của một cựu chiến binh tàu không số

Ong Nguyễn Xuân Thơm, nguyên Hàng hải số 1, đội tàu số 5, Thuyền trưởng 121, 621, 653, 673 (không số) Hải đoàn 2, đoàn 125, nguyên Tiểu đoàn trưởng 7 Anh hùng thuộc Hải đoàn 1, Hạm đội 171, Phó chủ tịch Hội Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển toàn quốc, Trưởng Ban liên lạc truyền thống tàu không số khu vực TP Hồ Chí Minh.Trong hồi kí của mình, ông kể về 2 chuyến đi chở vũ khí vào Bến Tre và Cà Mau. Chúng tôi xin giới thiệu với ban đọc QSVN về hai chuyến đi này của ông

Chuyến đầu tiên vào Vàm Khâu Băng (Bến Tre)


Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất; đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã đến cơ quan Đoàn 759 để khen ngợi, đồng thời trực tiếp giao nhận nhiệm vụ tiếp theo cho những chiếc tàu sắt số 5 mới hạ thủy của đoàn tàu không số. Trung ương Cục miền Nam cũng tỏ ý rất phấn khởi khi Trung ương Đảng đã sử dụng tàu sắt tương đối hiện đại chi viện vũ khí cho chiến trường miền Tây Nam Bộ
Đội tàu số 5 được biên chế 18 người, gồm: Thuyền trưởng Trần Phong, Thuyền phó Nguyễn Đức Dục, Lê Văn Thêm, Chính trị viên Đăng Văn Thanh, thủy thủ là Huỳnh Văn Tiến, hàng hải là tôi - Nguyễn Xuân Thơm. Máy trưởng Lê Thành Tô, Quyết, Lợi, Hoàng. Báo vụ: Di, Vinh, cùng một số đồng chí khác. Hầu hết là cán bộ tập kết và quân giải phóng miền Nam ra.
Tàu sắt số 5 do Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng đóng mới. Đây là loại tàu 100 tấn, chiều dài 30 m, ngang 5,80 m, độ sâu mớn nước 2,5 m.
Tàu được chia ra bốn ngành riêng biệt.
Ngành thứ nhất là ngành hàng hải được biên chế 2 người, hàng hải số 1 và hàng hải số 2 do tôi chịu trách nhiệm quản lý trang thiết bị hàng hải. Ngành thứ hai là ngành boong, 5 người, có 1 người phụ trách là thủy thủ trưởng, 3 khẩu 12,7, đội trưởng và y tá. Ngành thứ 3 là báo vụ được biên chế 2 báo vụ. Ngành thứ 4 là ngành cơ điện, được biên chế 5 người (một máy trưởng, 3 máy 1, 2, 3 một chấm dấu).
Cán bộ tàu là một thuyền trưởng, 3 thuyền phó, 1 chính trị viên. Nhiệm vụ của chiếc tàu sắt số 5 chuyến đi này là vào Bến Tre (cửa Khâu Băng).
Ngày 17/7/1963, tàu xuất phát tại K15 Đồ Sơn. Trước một ngày, đội thuyền viên được xe ca đưa từ số 3 đường Thành Hà Nội xuống Đồ Sơn để tiến hành công tác chuẩn bị nhận bàn giao tàu đã xuống đầy hàng, dầu, nước, thực phẩm và các trang thiết bị.
Thuyền trưởng nắm giữ chặt chẽ 2 ngành hàng hải và ngành máy, chính trị viên nắm giữ chặt 2 ngành báo vụ và boong. Một thế mạnh của những người đi biển xa, đường dài (đi B) là không bị say sóng.
Tôi và một số đồng chí khác ít bị say sóng nên khi đi biển gặp sóng to, gió lớn mình có thể làm tốt việc của mình và giúp đỡ cho đồng đội, làm thay việc làm của họ để bảo đảm hành trình con tàu đi biển được liên tục không bị gián đoạn. Thuyền trưởng Trần Phong lần đầu tiên đi biển xa dài ngày không chịu được sóng gió.
Tuy trước khi về đoàn tàu không số anh đã được đào tạo sĩ quan hải quân tại Trung Quốc và đã kinh qua nhiệm vụ thuyền trưởng nhiều năm, nhưng chưa có dịp đi biển xa dài ngày bao giờ.
Đợt đi biển lần này đúng vào mùa gió Tây Nam rất mạnh, cấp 6, 7 (tháng 7). Tàu phải chạy ngược sóng, ngược gió làm cho những người say sóng càng khó chịu và dễ nôn mửa hơn.
Tôi là người phụ trách hàng hải, luôn quan tâm đặc biệt hướng lái theo la bàn của mỗi ca trực 4 tiếng đồng hồ, theo dõi chỉ số máy tính đường các ca ghi chép khi giao ca, tổng hợp, khi thuyền trưởng hỏi đến sẽ cung cấp kịp thời.
Do đó, bất kỳ lúc nào, hàng hải với thuyền trưởng cũng như bóng với hình, không kể trong ca hay ngoài ca, thuyền trưởng ới một cái là có ngay, nhất là lúc tàu bị lạc bến.
Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu không số chưa được học tập và ứng dụng thiên văn hàng hải nên chỉ áp dụng phương pháp đi biển theo dự đoán nhích dần, do đó việc lạc bến không thể tránh khỏi.
Theo dự đoán, sau 6 ngày đêm tàu sẽ đến điểm chuyển hướng vào vàm Khâu Băng thuộc tỉnh Bến Tre. Nhưng buồn thay, vị trí tàu thực tế không phải như dự đoán mà bị tuột lại 40 hải lý.
Vì lẽ đó khi tàu tiếp cận bờ không đúng, mà vào đúng cửa đại, cửa tiểu gần phía Vũng Tàu. Trong chuyến đi này có người địa phương Bến Tre là đồng chí Huỳnh Văn Tiến, thủy thủ trên tàu.
2 giờ sáng ngày 3/8/1963, Ban chỉ huy tàu hội ý, xin ý kiến chi ủy nhất trí thực hiện phương án táo bạo, bắt người trên ghe đánh cá của dân, đưa lên tàu mình làm người dẫn đường, tránh các cồn cạn (Bến Tre có nhiều cồn cát ngoài khơi rất nguy hiểm, nếu không khéo sẽ bị mắc cạn và bị địch phát hiện, không hoàn thành nhiệm vụ).
Sau khi có người dân dẫn đường, tàu chạy về hướng Nam về vàm Khâu Băng, khoảng cách 40 hải lý. Khi tàu lọt vào vàm Khâu Băng thì đã 7 giờ sáng.
Thấy tàu sắt to lớn lần đầu vào Bến Tre, nhân dân đang làm đồng ùa nhau chạy ra 2 bên bờ rạch Khâu Băng vẫy tay reo hò vui mừng. Tàu số 5 đưa sâu vào rạch lá dừa nước và cây mắm.
Người của bến tập trung ngụy trang ngay lập tức vì nếu chậm trễ, trưa nắng lên máy bay địch đi tuần tra phát hiện được thì vô cùng nguy hiểm.
Mọi việc diễn ra êm đẹp. Chiếc tàu sắt đầu tiên vào Bến Tre đưa được hơn 62 tấn vũ khí cho chiến trường quê hương Đồng Khởi, cho niềm khát khao của Nữ tướng Nguyễn Thị Định anh hùng.
Đêm 8/8/1963, tàu được lệnh rời Bến Tre trở ra Bắc. Sau 7 ngày tàu về lại đến K15 Đồ Sơn, giao cho K15 trông coi.
Anh em đội tàu chúng tôi được xe ca đưa lên Hà Nội nghỉ ngơi an dưỡng, lấy lại sức lực để chuẩn bị cho những chuyến đi tiếp
NGUYỄN XUÂN THƠM
(CCB Tàu không số)

Chúng tôi xin giới thiệu tiếp hồi kí của ông Nguyễn Xuân Thơm về chuyến đi thứ hai
Vào bến Vàm Lũng (Cà Mau)


Ngày 10/10/1963, Đoàn 759 cho xe ca chở anh em Đội tàu số 5 chúng tôi từ số 3 đường Thành Hà Nội xuống K15 Đồ Sơn để làm công tác chuẩn bị.
Biên chế vẫn giữ nguyên như cũ. Chuyến thứ hai này chúng tôi được giao nhiệm vụ vào bến Vàm Lũng - Cà Mau.
Mọi diễn biến của chuyến đi thứ 2 cũng giống như chuyến đi đầu tiên, chỉ có khác nhau về thời điểm (tháng 10). Thời điểm khác nhau thì thời tiết cũng khác nhau đôi chút.
Những ngày tàu đi vào hướng Nam ít bị sóng vỗ mạnh vào mũi tàu mà dường như sóng đẩy lái tàu nhiều hơn. Máy chạy êm hơn, ít rùng mình hơn chuyến đầu tiên.
Theo dự đoán, sau 7 ngày đêm, tàu sẽ đến điểm chuyển hướng vào cửa Vàm Lũng. Đêm hôm đó, toàn bộ anh em trên tàu căng mắt ra quan sát đèn Hòn Khoai mà không thấy đâu cả, cũng không thấy rặng cây đước mũi Cà Mau.
Chuyến đi này người địa phương nhận dạng mục tiêu bờ là tôi, xuất thân từ bến Vàm Lũng mà ra. Tôi có nhận định là tàu đang đi vượt khỏi Hòn Khoai trên 30' nên không thấy đèn Hòn Khoai và bờ đâu cả (cự ly chiếu sáng đèn Hòn Khoai là 30').
Lúc này đồng chí Bí thư chi bộ triệu tập chi bộ họp khẩn cấp, lấy biểu quyết chọn một trong hai, cho tàu vào hay quay ra khơi đợi đêm sau vào. Lúc này tôi mới là đảng viên chính thức được một tháng tuổi Đảng, với trách nhiệm là người địa phương nhận dạng mục tiêu địa hình thực địa có chính xác hay không đồng nghĩa với thành công hay thất bại.
Theo ý kiến của tôi, đây là vùng biển phía Nam Hòn Khoai nên cho tàu chạy hướng 000o.0. Sau một tiếng đồng hồ sẽ bắt được đèn Hòn Khoai và sau đó thẳng hướng vào cửa Rạch Gốc, cách cửa Vàm Lũng 7 km về phía Nam, nếu thuận lợi ta cho vào cửa Rạch Gốc luôn.
Ở đó có đông ngư dân, thuyền bè đông đúc, quân ta dễ trà trộn với ngư dân, dễ che mắt địch hơn. Chi bộ nhất trí biểu quyết cho tàu vào.
Đúng như dự đoán, 5 giờ sáng tàu bắt được Hòn Khoai, thẳng vào cửa Rạch Gốc. Đúng 7 giờ tới cửa, do thủy triều xuống tàu không vào được, thả neo phía cửa Bắc.
Xuồng ở bên anh Ba Cụt ra, tổ chức cho bốc hàng. Một chiếc máy bay L19, loại trinh sát từ Hòn Khoai bay vào qua ngang cửa Rạch Gốc thẳng về hướng thị xã Cà Mau, tàu kéo cờ ba sọc ngụy quyền Sài Gòn che mắt địch.
Từ 9 giờ đến 12 giờ hôm đó (ngày 16/10/1963), anh Ba Cụt ở bến Cà Mau huy động ghe đánh cá của ngư dân Rạch Gốc chạy như con thoi vào ra chuyển tải những thùng đạn, bó súng còn thơm mùi thép mới.
Chuyển được 1/2 số súng đạn trên tàu vào bờ, tàu nổi lên, thủy triều bắt đầu lớn. Tàu 55 nhổ neo chạy thẳng vào cửa Rạch Gốc, vào khỏi cửa 100 m, bên trái có Rạch Tắc, cho tàu vào đậu, ngụy trang tạm thời, đợi đến tối nước lên cao nhất, đưa tàu vào ngã ba Dinh Hạn (ngọn cửa Vàm Lũng), ngụy trang kỹ lưỡng chờ bốc hàng tiếp.
Sau ba ngày tàu bốc hàng xong, tàu chuẩn bị xuất bến đi về miền Bắc. Lần này khác hơn lần trước, hàng dằn mũi tàu là củi đước, "sản vật" của rừng Cà Mau. Năm ngày sau khi rời khỏi cửa Vàm Lũng - Cà Mau, tàu chúng tôi về đến K15 Đồ Sơn an toàn.
Sau hai chuyến vận chuyển vũ khí, bài học kinh nghiệm quý giá mà tập thể cán bộ, chiến sĩ Đội tàu số 5 chúng tôi rút ra là: Quy luật thiên nhiên vùng biển Đông của bờ biển Việt Nam là hai luồng thời tiết gió mùa khác nhau: gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9, gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.
Ở biển Đông Việt Nam, gió mùa thổi mạnh có khi lên đến cấp 6, cấp 7. Sóng cao đến 4-5 m là chuyện thường.
Do đó, tàu đi trên biển Đông, khi mũi tàu đội sóng thì mỗi giờ tàu bị sóng nước đẩy lùi lại 0,5 hải lý hoặc ngược lại. Đó là bài học kinh nghiệm thực tế cho cánh thuyền trưởng của chúng tôi sau này, cho các chuyến đi tiếp theo. Chúng tôi áp dụng bài học kinh nghiệm thực tế trên để đưa con tàu đi đúng bến không còn lạc đường, lạc bến nữa.
Từ chuyến thứ 3 trở đi, Thuyền trưởng là Nguyễn Phan Vinh, Thuyền phó La Minh Tốt, các ngành khác được giữ nguyên như cũ. Trong 3 chuyến đi vào Trà Vinh, cửa Ba Động, tôi còn nhớ có một chuyến chở đồng chí Lê Đức Anh, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và một đại úy pháo binh cùng đoàn tùy tùng, một nhà báo, mang theo máy quay phim, chụp ảnh toàn cảnh những hoạt động của con tàu không số từ trên boong, buồng lái, ca-bin xuống đến khoang máy.
Sau đó cuộn phim đó có gởi theo tàu đem về Hà Nội lưu giữ bí mật. Chúng tôi mong đến ngày thống nhất nước nhà sẽ được xem cuộn phim đó, nhưng không thấy phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng.
Những chiếc tàu Đoàn 759 (tàu không số) như những cái bóng âm thầm lặng lẽ rời bến rồi cặp bến. Những chuyến đi đầy khó khăn gian khổ và căng thẳng. Không chỉ đấu trí với địch mà còn phải vượt qua sóng to, gió lớn, vượt qua thử thách của thiên nhiên. Nhưng trên tất cả là phải vượt lên chính mình.
Thiếu thốn nhọc nhằn, những sự cố trên biển, những lần gặp địch, những lúc lạc bến, những ngày thả trôi, đói ăn lương khô, khát uống nước lã, lúc say sóng, nắng, mưa chúng tôi đều trải qua trong mỗi chuyến đi. Ra đi là xác định cảm tử, sẵn sàng hy sinh, nhưng những cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 không hề nản chí.
Mỗi chuyến đi là một dấu ấn, làm đẹp thêm trang sử của Đoàn 759 (Đoàn 125) đoàn tàu không số, đoàn tàu Hải quân nhân dân Việt Nam hai lần anh hùng.
Ngày 17/9/1964, tạm biệt tàu số 5, tôi và một số anh em quân giải phóng miền Nam (tất cả 24 người) đã qua thử thách được Đoàn 759 đưa về K35 Đồ Sơn học văn hóa. Ngày 13/2/1965 về trường sĩ quan Hải quân đào tạo cán bộ thuyền, tạm xa đội tàu số 5 thân thương, nơi rèn luyện tôi trở thành cán bộ như ngày hôm nay./.
NGUYỄN XUÂN THƠM
(CCB Tàu không số)



Ông Lưu Công Hào ( Phải ) và MaGiang ( Trái )

Những chuyến tàu bi tráng
Một người trong số đó là ông Lưu Công Hào - thủy thủ của tàu 43 lữ đoàn 125 hải quân.

Xin pot lai câu chuyện về trân đánh của tàu ông Hào với tàu địch tại bến Đức Phổ. Sau đó 14 thủy thủ bị thương đã được bệnh xá Đặng Thùy Trâm cứu chữa


Hôm qua chúng tôi họp mặt ở Tuần Châu, anh hỏi tôi dạo này có hay liên lạc với anh Nhu không? ( Anh Nhu là thuyền phó của tàu tôi những năm 1972, 1973 ). Tôi bảo anh hôm nào lên Hà Nội thì “ rú còi “ cho bọn tôi. Anh nói vào ngày giỗ Đặng Thuỳ Trâm tớ đều lên HN thắp hương. Tôi hỏi vết thương của anh bây giờ còn đau không? Anh vạch bụng chỉ cho sết sẹo và nói : Trong này còn 4 mảnh đạn đang sống chung với anh, những hôm trở trời là biết ngay. Dạo đó BS Trâm chưa gắp ra được. Sao anh biết Trâm? Anh bảo khi báo đài đưa Nhật ký Đặng Thùy Trâm lên anh mới hồi tưởng lại thời gian điều trị ở trạm xá Đức Phổ cũng có một nữ Bác Sỹ tên Trâm. Anh giở cuốn sổ tay ra xem lại thì đúng vì khi đó sau khi rời trạm xá ra Bắc chị Trâm và các anh em bệnh xá đều ghi lưu niệm vào cuốn sổ của anh. Chị Trâm còn gửi quà về gia đình ghi rõ địa chỉ, tên mẹ tên cha của Trâm nhưng khi ra Bắc do nguyên tắc bí mật tổ chức không cho gặp bất cứ ai. Vui chuyện anh kể về trận đánh nhau với máy bay tàu chiến Mỹ năm 1967 - trận đánh mà duyên phận đã đưa anh vào trạm xá Đức Phổ - Trạm trưởng là bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm.
Anh kể : Hôm đó ( tháng 2/1967) Tàu 43 bắt liên lạc với bến Đức Phổ Quảng Nam để bốc hàng, khi chỉ cách bờ chừng 2hải lý thì bị địch phát hiện, quây bắt. 6 tàu chiến và 2 máy bay lên thẳng quây tàu, gọi loa chiêu hồi, chiêu hàng. Thuyền trưởng Thắng ra lệnh phá vòng vây, chạy vào bờ và đánh trả theo phương án đã định. Anh Hào và các thuỷ thủ: Nhu ( Hiện ở Đồ Sơn Thanh Hoá ) Ruệ ( Thái Bình ) Tòng, Rai ôm DKZ và AK lên boong tàu. Ngay loạt đạn bắn trả đầu tiên của các anh, hai chiếc máy bay lên thẳng hốt hoảng vọt lên cao. Biết không thể chiêu hàng được tàu Việt cộng 6 chiếc tàu đồng loạt trút đạn vào tàu ta. 2 máy bay chao liệng nhả đạn vào ca bin tàu. Rai trúng đạn ngay trên Boong. Anh Tòng chạy lại cứu Rai liền trúng đạn gục xuống chồng lên người Rai. Máy bay địch vừa bay ra, lợi dụng phút ngừng bắn, Hào và Nhu chạy ra cứu Rai, Tòng nhưng cả 2 đã chết. Hai anh khiêng xác đồng đội định đưa xuống hầm tàu nhưng hoả lực địch quá mạnh nên lại phải ôm súng đánh trả. Máy bay địch quay lại phóng rốc két, vãi đạn lên tàu, máy bay bay thấp và gần đến mức còn nhìn thấy rõ mặt phi công.Thuỷ thủ trên tàu kiên cường bắn trả. Một trong 2 máy bay trúng đạn loạng choạng bay vút lên cao rồi đâm sầm xuống biển. ( Đến lúc này lực lượng Bến và bà con địa phương mới biết là tàu ta đánh nhau với tàu địch, lúc trước mọi người tưởng là địch diễn tập. Bến liền cử lực lượng đến tiếp ứng, chi viện cho anh em tàu) Cay cú trước thất bại. Địch gọi máy bay và pháo từ tàu chiến ngoài khơi trút đạn vào tàu ta. Hàng loạt đạn 20 ly từ máy bay trút xuống ca bin. Ruệ Hàng hải số 1 trúng đạn chết ngay tại chỗ, ông Thắng quát: Hào vào lái, đưa tàu vào bờ. (Anh là hàng hải số 2). Con tàu chồm lên, xoay ngang xoay dọc oằn oại trước sóng biển và mưa đạn từ tàu chiến và máy bay địch. Từng loạt đạn 20 ly từ máy bay bắn vào ca bin tàu. Một viên đạn sượt trục tay lái chệnh huớng ghim thẳng vào bụng anh. Bụng đau rát máu chảy ướt dẫm áo quần. Anh cố ghìm lái cho tàu hướng vào bờ truớc khi ngất lịm. Bon địch quyết tâm bắt sống tàu 43. Chúng huy động tiếp bộ binh và xe tăng đến bến. Súng trên tàu và máy bay địch ngừng bắn vì sợ bắn vào bộ binh trên bờ. Trong khoảng thời gian ngừng bắn ít ỏi thuyền trưởng Thắng quyết định cho huỷ tàu. Không để cho địch bắt sống tàu, ông ra lệnh cho anh em rời tàu. Chờ anh em còn sống xuống nước xong ông điểm hoả mìn huỷ tàu rồi nhảy xuống biển cùng anh em bơi vào bờ. Không hiểu sức mạnh nào đã đưa được 14 anh em vừa bị thương vừa kiệt sức bơi được vào bờ. Rất may lực lượng Bến đến kịp nhanh chóng đưa anh em vào hầm bí mật ẩn nấp cứu chữa. Bộ binh, xe tăng đich vừa đến bờ thì dưới biển một tiếng nổ long trời lở đất vang lên. Chiếc tàu tan thành trăm mảnh tung lên rồi chìm dần xuống biển. Mặt biển lênh láng dầu của con tàu vỡ tràn ra, cháy bốc khói đen kịt. Rất nhiều mảnh tàu vỡ, súng đạn và cả xác thuỷ thủ tung lên bờ. Bà con kể lại trong những vật văng lên bờ có cả những mảnh thây người và một đùi người còn nguyên. Địch đã gom toàn bộ mảnh tàu vỡ, mảnh thây người và những thứ văng lên bờ rồi đặt bộc phá cho nổ tung, quay phim chụp ảnh đưa lên báo rêu rao chiến công tiêu diệt tàu Việt cộng. Lại nói về các chiến sỹ còn sống sót được anh em bến đưa vào hầm ẩn nấp, anh Hào nhớ được một nữ du kích chị tên là Phượng đã khiêng anh vào hầm. Năm 2005 anh Hào đã vào thăm lại nơi con tàu đã chìm, nơi đồng đội đã hy sinh, nơi anh bị thương và được cứu sống trong vòng tay bà con Sa Huỳnh. Anh đã gặp lại chị Phượng nguời đã cất dấu và cấp cứu anh và đồng đội. ( Chị Phượng đang sống tại thôn Sa Huỳnh huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Nam) 10 ngày sau các đ/c Bến mới luồn qua vòng vây kẻ thù đưa các chiến sỹ TKS bị thương ra trạm xá của Đặng Thuỳ Trâm. Tại trạm xá anh đựợc chính tay BS đặng Thuỳ Trâm mổ, chữa trị Sau 1 tháng, khi sức khoẻ bình phục cả đội lại vượt Trường Sơn về đơn vị tiếp tục những chuyến tàu chở hàng vào miền Nam. Anh cười rổn rảng: Ngày đó không được trạm xá cứu chữa thì chắc cũng chết vì vết thương nhiễm trùng thôi. Tôi bình luận : Người như Anh sóng biển đông không vùi dập được, đạn Mỹ không giết được thì anh còn phải sống đến trăm tuổi. Chúng tôi lại nâng ly, ưỡn ngực hứng gió biển Tuần Châu. TKS ngày 29/6/2009


Anh hùng Phan Vinh:
BẢN ANH HÙNG CA BẤT TỬ TRÊN VÙNG BIỂN HÒN HÈO

21 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là hai dấu ấn trong quân ngũ của Trung úy, thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933 - 1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.

Gia đình người anh hùng

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ “Đoàn tàu không số” và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Phan Vinh liền với tên đường.

Phan Vinh, người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3/1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.

Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.

Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công trên vùng biển Hòn Hèo.

Tàu 235 - Bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo

Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn chục cây số đường biển. Nơi đây, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu 235 vào năm 1968.

Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt rađa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.

Anh Long An, một trong năm người sống sót đã kể lại chuyến đi của tàu 235.

- 11 giờ 30 phút ngày 27/2/1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.

Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và tôi, thợ máy.



Trước giờ nhổ neo Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Tối 29/2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...

Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.

Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu, và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.

Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.

Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.

20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1/3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.

Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của tàu 235 còn lại 7 người, đó là thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.

Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...

Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...

Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.

Kể đến đây, anh Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, anh nói tiếp:

- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy
theo http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/truyenthong/2006/10/51404.cand?Page=2

--------------------------------------------------------------------------------


Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng

Điều mà anh Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Cơ quan Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là anh Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên quyền Đoàn trưởng Đoàn 125 Hải Quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.

Lá thư anh Phong nhận ngày 26/10/1967 có đoạn:

“Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".

Lý tưởng cách mạng cao đẹp của anh và của thế hệ thanh niên thời đó, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Các anh đã dấn thân vào chiến trận với một tâm hồn sôi nổi, giàu nhiệt huyết. Không phải một tấm gương mà hàng ngàn, hàng vạn tấm gương “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trên mặt biển, vì sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Lá thư gửi tháng 1/1968, trước khi anh hy sinh một tháng:

Phong thân!

Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định.

...Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác.

Thằng Thạnh sắp cưới vợ, mình không có gì làm quà. Phong mở trong gói đồ mình để lại, lấy chiếc khăn tay, lọ nước hoa nói rằng mình gửi tặng mối tình đó. Phong chuyển lời hỏi thăm và chúc mừng đôi bạn xinh đẹp ấy...

Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi.

Cách đây 40 năm, Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có anh không còn nữa nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi






Những thế hệ khác nhau của lính TKS hội ngộ trong ngày tổ chức Đại lễ, người lính già đứng giữa là Chính Trị Viên tài ba Đỗ Như Sạn.

Với nghĩa cử “uống nước nhớ nguồn, đời đời biết ơn các anh hùng liệt sĩ Tàu không số”, tối 23.7.2009, Sở Điện lực Hải Phòng kết hợp với lãnh đạo thành phố, lãnh đạo Bộ Tư Lệnh Hải quân, đã tổ chức đêm Đại lễ cầu siêu, thả hoa đăng tưởng nhớ vong linh những anh hùng liệt sĩ Tàu không số (TKS), một thời không quản hy sinh gian khổ, vượt qua mọi phòng tuyến ngăn cản của địch, vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, và nhiều người đã ngã xuống trên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại ấy.

Đại lễ cầu siêu trước sự hiện diện của hàng ngàn người dân, cùng đông đảo các tăng ni phật tử đất cảng. Đặc biệt sự hiện diện của hàng trăm người lính Hải quân đủ các thế hệ, đến các cựu thuỷ thủ TKS ở các tỉnh, thành lân cận như: Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định...cũng tề tựu về “Bến Nghiêng” (Đồ Sơn) đông đủ, khiến cho đêm cầu siêu trang nghiêm, hoành tráng.

Với bàn tay tài hoa của nhà tổ chức: chung quanh khuôn viên Bia tưởng niệm TKS đã được bài trí, tái hiện lại cảnh những con tàu lần lượt rời “Bến Nghiêng”, âm thầm lặng lẽ ra đi vào chiến trường không một cuộc liên hoan, không một người đưa tiển...Cứ thế, cứ thế họ âm thầm ra đi trong tiếng nhạc trầm buồn thống thiết, khiến cho ai nấy đứng trên bến cảng lặng im, đâu đó bật lên những tiếng khóc thương nhớ... Tôi đưa mắt nhìn sang chị Liên- vợ anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu (người chính trị viên kiên cường dũng cảm, một mình ở lại tàu điểm hoả phá huỷ phương tiện, và anh đã cùng con TKS 645 đi vào cõi bất tử, trưa ngày 23. 4. 1972) thấy hai hàng nước mắt chị tuôn xuống thấm đẩm cả vai áo. Đứng bên phải chị Liên là người chính trị viên đầu bạc: Đỗ Như Sạn, 78 tuổi cùng thời với chồng chị, từ Thanh Hoá ra dự lễ, ông cũng có chung tâm trạng bùi ngùi xúc động, cúi đầu mặc niệm, cầu siêu cho những linh hồn bạn bè một thuở... Đối với lớp “lính sinh viên-1972” bổ sung về đoàn TKS sau những năm cuối của cuộc chiến tranh, nhiều người cũng đã trải qua những chuyến đi đầy gian khổ, ác liệt trên con đường huyền thoại ấy; họ thấu hiểu hơn ai hết về những máu xương đồng đội mình nằm lại nơi biển cả đại dương, nên ai nấy mắt đều rớm lệ. Nhà Doanh nhân thành đạt nhất của hội CCB TKS, anh Đào Hồng Tuyển, từ đảo Tuần Châu (Quảng Ninh) đến dự Đại lễ, cũng không kìm nỗi xúc động mỗi khi nghe tiếng kèn đồng của đội Quân nhạc tấu lên khúc nhạc hồn tử sĩ...

Là “phó nháy nửa mùa” như tôi, cũng không dấu được dòng cảm xúc khi đưa ống kính đến trước hàng trăm khuôn mặt đang nhoè nước mắt; Đến đông đảo các Tăng ni phật tử chăm chú khấn vái trước bàn thờ; Đến đội hình tiêu binh bồng súng trang nghiêm trước lễ đài, đến cả mấy chục em thiếu nhi xếp hàng thẳng tắp, tay cầm những ngọn nến đang cháy, cúi sát đầu mặc niệm vong linh của các ông, các bác, các thuỷ thủ TKS, một thời chưa xa đã ngã xuống trên con đường Hồ Chí Minh trên biển đông!

Và Lễ cầu siêu được kết thúc bằng một biển hoa đăng lấp lánh thả vòng quanh những con tàu, như muốn nói với các chiến sĩ TKS đã yên nghĩ vĩnh hằng dưới đáy biển đông là nhân dân, đồng đội, thế hệ trẻ của các anh hôm nay, cùng với các con cháu mãi mãi khắc ghi công lao, máu xương của các liệt sĩ, một thời đã nhuộm đỏ nước biển đông cho đất nước Việt Nam sạch bóng quân thù!


Rất tiếc là do quá bất ngờ nên chúng tôi đã không kịp “chớp” lại hình ảnh cái ôm đầy xúc động với những giọt nước mắt tràn mi của anh Trần Tiền Vệ, nguyên thủy thủ với anh Đỗ Như Sạn, nguyên chính trị viên tàu 56 trong chuyến đi cuối tháng 2 đầu tháng 3/1968 phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nỗi dậy Mậu Thân , khi họ bất ngờ được gặp nhau trước giờ Đại lễ cầu siêu hôm 23/6 vừa rồi.
Trong cuộc gặp này, họ cùng nhau ôn lại những kỉ niệm không bao giờ quên trước những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh mà giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Hai anh em kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện về những bức điện trao đổi giữa Sở chỉ huy mà đại diện là Đoàn trưởng Đoàn Tàu không số, ông Huỳnh Công Đạo với con tàu 56 mà đại diện là chính trị viên Đỗ Như Sạn. Tôi thấy không gì hơn là xin pot lại nguyên văn những bức điện trên

Ngày 29 tháng 2
Tàu 56 báo cáo về Sở chỉ huy:
“- 6 giờ, gặp 6 máy bay cắt ngang hướng đi từ Đà Nẵng đến Gu-am”.
- 10 giờ, một máy bay NAVY ở độ cao 200m, lượn 5 vòng chụp ảnh. 10 giờ 20 nó vào bờ. Tàu vẫn giữ hướng đi – Sạn”.

Điện từ Sở chỉ huy: “Điều chỉnh tốc độ. Không vào sớm hơn – Đạo”.

Điện từ tàu về: "17 giờ, 1 tàu chặn trước mũi, ta tránh sang trái. 1 máy bay đến lượn vòng. 17 giờ 30, tàu chiến đang đi về phía ta - Sạn”.

“19 giờ, gặp 9 tàu địch. Tránh hơn 2 giờ. Chi bộ quyết định vào. Xin chỉ thị - Sạn".

Điện tử Sở chỉ huy: "Bình tĩnh xử lý. Nếu địch bám sát, không ăn được, nghi binh đánh lạc hướng, bảo đảm cho đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ - Đạo”.
Ngày 1 tháng 3.

Điện từ tàu về:

“18 giờ 23 phút, gặp 11 tàu địch bám sát. Tránh không được. 23 giờ vẫn bám sát. Nhận định, có thể lộ. Trở ra chờ thời cơ - Sạn”.

“3 tàu địch dọi đèn pha gọi dừng máy. Máy bay thả pháo sáng. Chúng tôi vẫn đi - có thể chiến đấu - Sạn”

Điện tử Sở chỉ huy: "Tránh né quay ra. Ngay mai chờ lệnh - Đạo”.

Điện từ tàu: "Địch chặn đường, cách bờ 40 hải lý. Ba tàu địch đang đuổi theo tôi - Sạn”.

Điện từ Sở chỉ huy: "Bình tĩnh. Tàu 68 địch theo 3 ngày liền vẫn không việc gì. Ngụy trang cho tốt - Đạo”

Ngày 2 tháng 3

Lúc 3 giờ 30, điện từ tàu: "Địch bám sát, bắn doạ. Tàu đi hướng 90o. Treo cờ Nhật Bản. Sẵn sàng chiến đấu. Xin chỉ thị - Sạn”

Chỉ thị của Sở chỉ huy lúc 3 giờ 50: "Bình tĩnh. Địch doạ. Chúng không dám đánh ngoài khơi - Đạo”.

6 giờ 40, điện tử tàu : “Máy bay lượn vòng, bắn khiêu khích - Sẵn sàng chiến đấu - Sạn ".

Mệnh lệnh từ Sở chỉ huy: "Tránh ra Biển Đông - Đạo”. Một lúc sau, điện tiếp: "Báo cáo: hiện ở đâu? địch ra sao? Nếu căng, không đi vội - chuyển hướng đông đi về - Đạo”.

12 giờ 15 phút, điện từ tàu: “Lúc 12 giờ, tàu ở kinh độ 111o36, vĩ độ 14o19 hướng đi 90o. Vẫn còn một chiếc tàu địch bám liên tục. Tinh thần anh em tốt - Sạn”.

Lệnh từ Sở chỉ huy lúc 14 giờ 10: “Bình tĩnh động viên anh em cho tốt. Địch khiêu khích, không dám đánh ở công hải, nhưng phải cảnh giác cao. Cho trở về - Đạo”.

Điện từ tàu lúc 17 giờ: "13 giờ, có 3 tàu địch theo. Gặp 3 máy bay địch đi về phía Đà Nẵng. Đi về theo hướng tàu buôn Trung Sa, Tây Sa - Sạn” (Đoạn trên viết theo hồ sơ lưu giữ - nguyên văn và được trích từ cuốn “Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân” của tác giả Đình Kính).


Qua nội dung những bức điện trên, chúng ta thấy rõ: nhờ chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên; kiên quyết, chủ động và sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy; bình tĩnh, khôn khéo và linh hoạt trong các tình huống khẩn cấp, phức tạp; nên tàu 56 đã giữ được thế hợp pháp trên vùng biển quốc tế, tuy phải quay trở về nhưng đã nghi binh đánh lạc hướng, thu hút sự chú ý và lực lượng địch về phía mình, góp phần tạo cho đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ được con tàu cùng 37 tấn vũ khí, giữ được bí mật tuyến đường và đặc biệt hơn là giữ được tính mạng của 17 cán bộ chiến sĩ trên tàu trở về căn cứ an toàn, chuẩn bị cho những chuyến đi mới. Qua đó một lần nữa cho ta thấy rõ vai trò của người chính trị viên trong hoàn cảnh chiến đấu quan trọng biết nhường nào.

Nhìn anh Sạn với cái vẻ già nua, hóm hém ở cái tuổi 78, chúng tôi thấy toát lên ở ông sự từng trãi, bản lĩnh và kinh nghiệm đầy mình. Chúc ông – một con người mà sóng gió đại dương không vùi dập nổi, bom đạn quân thù không không khuất phục nổi, được bách niên giai lão.


Đây là đảo Phan Vinh đang được xây dựng công sự phòng thủ. Đảo được VN đóng quân sau 1988. Hình được chụp trước 1995.


Cái chết của một người anh hùng Đoàn tàu không số



Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh - đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của Phương.

Thật lạ. Mãi tới những ngày đi viết phóng sự này, tôi mới tìm được câu trả lời cho một băn khoăn của chính mình sau rất nhiều năm tháng, rằng vì sao cuộc Chiến tranh Vệ quốc của dân tộc ta lại được gọi là một cuộc CHIẾN TRANH THẦN THÁNH. Hóa ra rất giản dị, bởi chỉ có những con người với "trái tim như ngọc sáng ngời", chỉ có những VỊ THÁNH "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" - chỉ có họ mới có thể viết nên trang sử vàng chói lọi và làm nên chiến thắng lẫy lừng của cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm ròng rã ấy.

Một trong những con người đó, một trong những VỊ THÁNH đó là nhân vật chính của câu chuyện mà tôi sẽ kể dưới đây. Ông là Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Chính trị viên của Đoàn tàu không số.

Đêm nghe chuyện kể của con trai người liệt sĩ

Bạn tôi, vốn là lính thông tin Sư đoàn 324 thời đánh Mỹ, cứ réo rắt "phôn" suốt cả tuần, cứ nằng nặc gọi tôi xuống ngay Hải Phòng, để cùng chia sẻ với gia đình người bạn ông dưới đó một niềm vui, một nỗi xúc động vô bờ bến. Số là gia đình người bạn đó hôm cuối tháng 3/2009 vừa tìm được hài cốt của người chồng, người cha mình là Anh hùng LLVTND-Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. "Đây là người liệt sĩ duy nhất cho tới nay tìm được hài cốt trong tổng số 97 liệt sĩ của Đoàn tàu không số hy sinh thời chống Mỹ" - ông bạn tôi nhấn mạnh qua điện thoại.

Nắng nóng là thế suốt cả tháng 6, suốt cả tuần qua, thế mà buổi chiều hôm đi Hải Phòng ấy, bỗng mưa rào ào ạt. Đường 5 có những lúc nhòe đi trong mưa. Cái gạt nước làm việc không ngưng nghỉ một phút nào suốt cả trăm cây số từ Hà Nội xuống. Bù lại là mát mẻ. Bù lại là bụi bặm rác rưởi được giũ sạch.



Một trong những chiếc tàu không số trên đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. (Ảnh do hải quân Mỹ chụp).

Xuống tới đất Cảng đã là xẩm tối. Phố xá Hải Phòng sạch tinh khôi. Dưới ánh đèn cao áp trắng xanh, dưới sắc phượng vĩ sau mưa thắm đỏ như hồng ngọc, lối xóm Hải An chợt như chìm trong huyền ảo. Và trong cái không khí đầy thanh tịnh tinh khiết ấy, tôi được đắm chìm vào câu chuyện về người Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu - một "câu chuyện cổ tích" của thời chống Mỹ, mới đây thôi mà sao có lúc như là xa xôi lắm?

Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh - đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của Phương.

Kỷ niệm những ngày ấu thơ bên cha ùa về, như ngọn gió lành từ biển ngoài kia đêm đêm lại mơn man thổi vào đất liền, khiến cho người đàn ông 51 tuổi đời này dường như trở lại những ngày tuổi 14 - ngày cha anh ra khơi và mãi mãi không về.

Phương sinh năm 1958, học hết phổ thông là đi học Công an, rồi làm lính trinh sát, rồi cán bộ điều tra, và bây giờ là Thượng tá, Phó trưởng Công an quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Suốt gần 40 năm qua, dù bận rộn học hành, dù vất vả công tác, dù hiểm nguy đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng trong sâu thẳm trái tim Phương vẫn khôn nguôi một ước nguyện thiêng liêng: làm sao tìm được hài cốt của người cha đã hy sinh trên biển năm 1972, tháng 4 ngày 24. Đấy cũng là một khát vọng có lúc đã lạnh ngắt vô vọng trong đáy lòng người mẹ già và 3 đứa em Phương sau bao kiếm tìm non nửa thế kỷ.

"Cha tôi sinh năm 1932, quê xã Thăng Phương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam - Phương kể. Năm 16 tuổi, ông đã tham gia du kích đánh Pháp ở quê nhà. 18 tuổi, ông vào bộ đội. Năm 1954, khi 22 tuổi, ông tập kết ra Bắc, rồi xuất ngũ về công tác tại Xí nghiệp đánh cá Hạ Long - Hải Phòng và kết hôn với mẹ tôi - một cô gái đất Cảng. Năm 1961, ông tái ngũ và trở thành một trong những người lính đầu tiên của đường Hồ Chí Minh trên biển, trở thành Chính trị viên của một con tàu của Đoàn tàu không số chuyên vận tải vũ khí, đạn dược vào Nam...". Phương bắt đầu câu chuyện về người cha thân yêu như đọc những dòng trích ngang lý lịch ("Bệnh nghề nghiệp" chăng?).

Nhưng rồi, chợt ấm áp, chợt nồng hậu, chợt thăm thẳm suy tư, Phương bồi hồi kể về những ngày cuối bên cha. "Tôi nhớ rất rõ ngày hôm ấy là ngày 16/3/1972, vì nó liên quan đến một cái mốc lịch sử của chiến tranh. Đúng một tháng sau ngày ấy - ngày 16/4/1972 - là hôm Không quân Mỹ bắt đầu rải thảm B-52 xuống Hải Phòng, mở đầu chiến dịch sử dụng không quân hủy diệt các thành phố lớn ở miền Bắc trước khi phải ngồi vào bàn Hội nghị Paris 1973 - Phương bắt đầu dòng hồi tưởng.

Là chính trị viên, nói như từ mà thế hệ chúng tôi hay dùng, cha tôi "Bôn-sê-vích" lắm. Ông rất nghiêm khắc với bản thân và cả với mẹ con chúng tôi. Suốt 13 chuyến tàu vận chuyển vũ khí vào Nam trước đó, ông không hề nghỉ lấy một ngày ở nhà trước lúc ra khơi. Tất cả thời gian và tâm trí ông dành cho những chuyến vượt biển của tàu không số. Đối với ông, không có ngày nghỉ, không có gì quan trọng hơn là những tấn vũ khí chuyển vào Nam đánh giặc.



Gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu chụp năm 1964. (Ảnh do gia đình cung cấp).

Nhưng cái lần ấy, cái lần trước chuyến tàu thứ 14 đầy định mệnh ấy, có những "điềm" rất lạ. Cha tôi bỗng dưng xin đơn vị cho nghỉ ở nhà hẳn 2 ngày. Ông mua giấy dầu lợp lại góc mái nhà bị dột đã lâu, ông cùng mẹ tôi đi chợ, rồi tự tay nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Buổi chiều, ông còn lôi 4 anh em tôi ra tắm rửa kỳ cọ (tôi lớn nhất lúc ấy 14, cậu út mới hơn 3 tuổi). Ông còn "hào phóng" (thậm chí đối với ông là hơi "xa xỉ") dẹp bỏ cái bếp dầu mẹ tôi dùng đã dăm bảy năm, rỉ hoen và nấu món gì cũng oi khói, ra mậu dịch mua hẳn cái bếp dầu mới toanh, loại sắt có tráng men xanh "xịn" nhất thời ấy. Có hôm trong bữa cơm, ông còn dặn chúng tôi: "Mấy hôm nữa, anh em chúng mày đến đơn vị bố gặp các chú hậu cần, mang cái can dầu ma-dút 20 lít bố đã xin các chú ấy mang về cho mẹ, tha hồ mà đun nấu...".

Rạng sáng ngày 16/3/1972, buổi sáng cuối cùng sau 2 ngày nghỉ trọn vẹn ở nhà cùng vợ con, mới 5h sáng, ông Hiệu đã đánh thức cậu con cả dậy. Tuổi ăn tuổi ngủ, Phương uể oải mãi không rời khỏi giường. "Cha tôi ôm tôi rất chặt vào lòng, xoa tóc tôi âu yếm (con cái ông yêu thương hết mực, nhưng cái kiểu ôm ấp vỗ về "tiểu tư sản" ấy thì chưa bao giờ tôi được thấy ở cha tôi). Giọng thầm thì như gió thoảng, chắc sợ mẹ tôi và các em nhỏ thức giấc, ông dặn: "Phương à...! Con là con trai lớn, ở nhà gắng chăm học, chăm làm. Nhớ cố gắng giúp đỡ mẹ, chăm lo dạy bảo các em khi bố đi xa...".

Tôi chợt thấy ươn ướt trên mái tóc mình. Trời ơi, thì ra cha tôi đang khóc, nước mắt thấm xuống đầu tôi. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha mình khóc, và cũng là lần duy nhất. Tôi đâu ngờ rằng đó là những giọt nước mắt của cuộc chia ly vĩnh viễn mà cha tôi dường như có linh cảm. Chỉ 40 ngày sau, cũng vào một buổi sáng, cha tôi đã hy sinh trên Vịnh Thái Lan...".

Mấy ngày sau buổi sáng chia tay ấy, nhớ lời cha dặn, Phương cùng cậu em trai mang đòn gánh dây thừng đi bộ từ Hải Phòng sang đơn vị bố bên Thủy Nguyên để khiêng can dầu ma-dút về. “Quái lạ - Phương kể tiếp - suốt bao năm công tác, cả khi ở cơ quan dân sự lẫn lúc trong hải quân, chưa bao giờ cha tôi cho phép mẹ con tôi tơ hào dù là một thanh củi, một hòn gạch, một giọt xăng dầu của công mang về nhà. Công đoàn hay hậu cần phân phối cho thứ gì, như gói trà, bao thuốc, cái xăm xe đạp, viên đá lửa, ông cũng đều nhường cho anh em trong đơn vị cả. Vậy mà lần này, sao cha lại xin hẳn một can dầu 20 lít cho mẹ con tôi. Tôi giật mình tự hỏi, và có cảm giác gai người không hiểu nổi...".

Hai anh em Phương, khẳng khiu như hai cây sậy, đen đúa như hai cục than, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bước thấp bước cao khiêng can dầu về nhà trong cảm giác nghi hoặc bất thường ấy, trong linh cảm bất an ấy. Can dầu ma-dút, để làm ấm thêm ngọn lửa của cái bếp dầu cha mới sắm trước hôm đi, để làm sáng thêm ngọn đèn dầu anh em Phương chụm đầu học bài đêm chiến tranh mất điện; can dầu ấy đâu ngờ là món quà cuối cùng của tuổi thơ Phương và các em được nhận từ người cha yêu dấu, là sự quan tâm cuối cùng người chồng dành cho người vợ từ nay mãi mãi lẻ loi bên 4 đứa con thơ dại.

Bình minh ấm áp ký ức đồng đội

Hà Nội cuối năm 1978. Một hôm, khi Nguyễn Đình Phương đang là sinh viên năm thứ 2 Đại học Cảnh sát, đang giờ lên lớp, anh được gọi lên gặp Ban Giám hiệu ngay. Phương sững người khi bước vào Phòng Giám hiệu, nhận thấy bên những bộ cảnh phục quen thuộc của các thầy cô còn có những bộ quân phục hải quân thân thương - dấu ấn về người cha thủy thủ.

Đó là các bác, các chú đến từ Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, tới trường để xin phép cho Phương được nghỉ 2 ngày về Hải Phòng dự Lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT cho cha Phương - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Trung úy hải quân, Chính trị viên Tàu không số.

Và mãi đến buổi lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng, Phương mới biết cụ thể về chiến công, về sự hy sinh của cha mình và đồng đội trong chuyến tàu vào Nam tháng 4/1972 ấy. Còn trên tấm Bằng danh hiệu Anh hùng do Chủ tịch Nước Tôn Đức Thắng ký tặng ngày 6/11/1978 mà mẹ anh - bà Phạm Thị Vi - thay mặt cha và gia đình đón nhận có ghi những dòng chữ vàng: "Tặng Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần cùng toàn dân đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn".

Tôi đến Văn phòng Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển nằm ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận Ngô Quyền) sớm hơn hẹn 15 phút, đã thấy các bác cựu chiến binh (CCB) tề tựu đông đủ cả rồi. Họ đều là lính của Đoàn tàu không số, có những người là đồng đội cùng một chiếc tàu với ông Hiệu, có cả người lính đã chứng kiến giây phút cuối cùng của ông trước lúc hy sinh.

Bác Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội, cho tôi biết một điều thật thú vị. Bao nhiêu người đã nói, đã nghe về Đoàn tàu không số, nhưng không biết đấy là một đoàn tàu có số hẳn hoi. Đó là Lữ đoàn 125 Hải quân, trong đó có các tàu như tàu số 235 của Anh hùng Nguyễn Phan Vinh, tàu số 187 của Anh hùng Hồ Đức Thắng, còn tàu của Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu có số 645.

Nói về lịch sử Lữ đoàn 125, bác Lưu Lanh, Phó chủ tịch hội kể chi tiết: Để chi viện trực tiếp vũ khí cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cùng với con đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn trên bộ, ta đã quyết định mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển Đông. Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng đã thành lập Đoàn 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân.

Trong 10 năm (từ tháng 4/1962 đến tháng 4/1972) Đoàn 125 đã vượt biển 168 chuyến, vận chuyển vào 19 bến của 9 tỉnh phía Nam, chuyên chở được 6.105 tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ chi viện cho chiến trường, đã làm nên một "Đường Hồ Chí Minh trên biển" đầy độc đáo của chiến tranh nhân dân. Đoàn 125 đã hai lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Có 6 đồng chí được tuyên dương Anh hùng, trong đó có Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu...

"Do công tác bí mật, các tàu của Đoàn 125 khi hoạt động ở vùng biển nước nào thì đeo biển hiệu của tàu nước đó - bác Hữu bổ sung. Thậm chí có lúc nguy hiểm, ta đành phải treo cả cờ, dùng cả màu sơn của tàu nước đó để đánh lạc hướng sự tuần tra kiểm soát của Mỹ - ngụy. Rồi khi vào vùng biển phía Nam, để giữ bí mật tuyệt đối, tất cả các tàu đều xóa số tàu của mình đi. Mọi thứ vật dụng trên tàu như đồ hộp, đường sữa, thuốc lá, xà phòng v.v... cũng đều phải bóc hết nhãn mác đi. Mọi người quen gọi đoàn tàu chúng tôi là "tàu không số" là vì vậy...".

Góp vào chuyện kể của bác Hữu, bác Lanh, các bác CCB khác như bác Phong, bác Hiếu, bác Lịch v.v.... đã cho tôi biết thêm rất nhiều những điều mà sách vở chưa từng nói tới về Đoàn tàu không số của họ. Đối với những người lính tàu không số, ra khơi là xác định cảm tử, ngày rời bến là ngày xác định hy sinh. Có những hy sinh vẻ vang ghi danh sử vàng dân tộc, có những hy sinh thầm lặng giấu vào ký ức cá nhân.

Chỉ riêng việc đảm bảo bí mật cho những chuyến tàu đã có bao điều đáng nói. Có những đồng chí tập kết ra Bắc hơn 10 năm xa nhà xa quê hương, mòn mỏi chờ mong thương nhớ, vậy mà khi tàu cập bến ngay tại bãi biển làng mình, vượt qua ngàn dặm trùng dương về tới cách nhà chỉ vài trăm mét, vẫn không được lên bờ. Có đồng chí chồng Bắc vợ Nam, xa vợ đằng đẵng cả chục năm ròng, khi cập bến, trông thấy vợ trong đoàn dân công ra nhận vũ khí, vậy mà phải lánh mặt xuống khoang tàu để đảm bảo bí mật, phải rưng rưng ngậm ngùi nhìn vợ từ xa, từ khe cửa sổ dưới tàu trông lên mà trái tim nghẹn ngào xa xót...

Cái chết của một người anh hùng đoàn tàu không số (kỳ cuối)




Người vợ và con trai cả của liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.


Một ánh chớp lóe lên, kế đó là một tiếng nổ cực mạnh, một cột lửa đỏ cùng với cột sóng cao hàng chục mét dựng lên giữa biển xanh. Những mảnh vỡ của con tàu văng tung tóe sang cả chiếc khu trục của địch đang hằm hè gần đó làm bọn địch trên tàu kinh hồn bạt vía. Tàu 645 và người Trung úy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.

Trận chiến cuối cùng của tàu 645 trên biển Đông

Trong suốt cả buổi sáng trò chuyện cùng các CCB đồng đội của Nguyễn Văn Hiệu, tôi để ý có một người đàn ông trạc hơn 60 tuổi, tầm thước và nhỏ nhẹ, đôi mắt đượm buồn, cứ ngồi lặng lẽ lắng nghe, tay run run nắm chặt tay người con trai của ông Hiệu. Thì ra ông là Thẩm Hồng Lăng, người cuối cùng rời khỏi tàu 645, người lính cuối cùng mà ông Hiệu vĩnh biệt trước khi hy sinh.

Ông Lăng người quê Nam Định, sinh năm 1947, là lái tàu chính của tàu 645. Cuộc "sinh tử biệt ly" của ông Lăng với người Chính trị viên của mình, nghe ông kể lại, thật kỳ vĩ và cảm động.

Tàu 645 do Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu và Thuyền trưởng Lê Hà (quê Bà Rịa - Vũng Tàu) chỉ huy, trên tàu có tất cả 21 cán bộ, chiến sĩ. Tàu đã 2 lần nhổ neo ra đi, song bị tàu địch kèm chặt, nên đành quay lại. Tối ngày 12/4/1972, tàu ra khơi lần thứ 3. Sau nhiều ngày đêm vượt qua sóng to gió lớn, vòng lên vùng biển phía trên đảo Hải Nam, rồi vòng xa ra thuộc hải phận quốc tế ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, từ đó xuôi vào phía Nam Việt Nam.

Ngày 22 và 23/4/1972, tàu 645 tới vùng biển Phú Quốc, sau đó lại chuyển hướng về bến phía đảo Cô Công (Campuchia), cách Phú Quốc chừng 60 hải lý với ý định chờ tối sẽ vào. 14h ngày 23/4, tàu nhận được điện của Sở chỉ huy báo cho biết, đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau. Nhưng 17h lại điện: "Bến động". Tàu quay ra hải phận quốc tế. 19h ngày 23/4, xuất hiện một tàu khu trục địch từ Vịnh Thái Lan đi tới. Nó rọi đèn pha sáng rực, đánh tín hiệu hỏi tàu từ đâu đến và đi đâu.

Tàu 645 trả lời: "Tàu từ Trung Quốc xuống, bị lạc". Địch phát tín hiệu dừng tàu. Tàu 645 lập tức tăng tốc nhằm chạy ra hướng biển Đông thoát khỏi tầm truy đuổi của địch. Lập tức địch gọi máy bay bắn pháo sáng. Trong ánh pháo sáng chói lòa, tàu 645 đã nhìn rõ phía trước có 3 tàu địch.



Các đồng đội tàu không số của liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Tàu 645 vẫn giữ tốc độ đi ra vùng biển quốc tế. Chiếc khu trục 04 của Mỹ - ngụy bám rất sát tàu ta. Ý đồ của địch là bắt sống tàu 645. Đôi bên vờn nhau đến 5 giờ sáng ngày 24/4. 7h45, trời biển sáng rõ, quan sát bằng mắt, địch đã xác định được rằng đây là tàu "Bắc Việt giả dạng", chúng lập tức dùng loa dụ hàng. Anh em ta trên tàu lờ đi, như thể không rõ chúng nói gì. Thấy gọi hàng không kết quả, địch nổ súng bắn uy hiếp, đạn các cỡ chi chít rơi trước mũi tàu 645. Vẫn không ép được tàu 645 dừng lại, địch bắt đầu bắn nhiều loạt đạn liên thanh 14 ly 5 thẳng vào tàu ta, gây thương vong cho một số thủy thủ. Rồi một số quả đạn pháo lớn của địch bắn làm tàu ta thủng lỗ chỗ.

Trước tình thế đó, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu quyết định nổ súng chống trả quyết liệt. Các loại súng B40, B41, 12 ly 8 của ta hướng nòng về phía tàu địch đồng loạt nhả đạn... Lúc này địch tập trung hỏa lực đánh trả rất ác liệt. Các thủy thủ San, Lân, Giang, Thẻ lần lượt trúng đạn và hy sinh. Một số anh em khác bị thương. 9h sáng ngày 24/4, tàu ta vừa cơ động ra xa, vừa đánh trả quyết liệt.

Khoảng 11h, một quả đạn lớn trúng vào xích lái, tàu ta không còn điều khiển được, bắt đầu chạy vòng tròn. Khi biết tàu hỏng lái không thể cơ động được nữa, Nguyễn Văn Hiệu đề nghị Thuyền trưởng Lê Hà và ra lệnh cho anh em khoác áo phao nhảy xuống biển bơi vào bờ nhằm bảo toàn lực lượng, còn anh xin ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu phi tang vũ khí hàng hóa (chuyến ấy tàu 645 chở 70 tấn đạn cối cá nhân và 1 tấn thuốc nổ TNT cùng hàng hóa khác).

Lái tàu Thẩm Hồng Lăng và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu có ý sẽ rời tàu cuối cùng. Khi anh em đã xuống nước, hai anh còn nán lại thu tập tài liệu để hủy. Khi 2 anh đã khoác áo phao định xuống nước, thì phát hiện một tình huống vô cùng nguy hiểm: phía dưới biển gần tàu, anh em thủy thủ phần lớn đều bị thương, nên phải cụm lại một khối dìu nhau mà bơi, tất cả là 15 người, trừ 4 người đã hy sinh nằm lại trên tàu.

Chiếc tàu thì mất lái, cứ chạy vòng tròn, do vậy có lúc gần anh em thủy thủ, lúc lại ở xa. Chính vì vậy Nguyễn Văn Hiệu quyết định không rời tàu. Anh sợ khi tàu gần anh em rồi nổ, tính mạng 16 người sẽ hết sức nguy hiểm. Phải cho tàu nổ lúc ở vị trí xa đồng đội của mình nhất! Dưới biển, anh em đang cố nán lại đợi Hiệu.

Trên tàu, Thẩm Hồng Lăng cũng nấn ná, đòi cùng ở lại điểm hỏa với Hiệu. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc, sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ. Anh nói với Lăng, nửa như ra lệnh, nửa như khẩn khoản: "Em còn trẻ, còn cống hiến được lâu, được nhiều hơn anh... Với lại, anh đã có vợ con, em thì chưa kịp có người yêu, thôi Lăng nhảy xuống biển bơi cùng anh em đi...".

Ứa nước mắt thương người anh, người chính trị viên của mình, nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, không muốn để anh Hiệu một mình ra đi, vẫn vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong tàu. Nói nhỏ không được, anh Hiệu quát to: "Đồng chí về báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và cho tôi gửi tới anh em lời chào chiến thắng", rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Chới với giây lát, từ dưới biển nhìn lên, Lăng vẫn thấy rõ anh Hiệu đang quay lưng lại, chậm rãi bước về phía cột cờ, nơi cao nhất của con tàu, nơi để đoạn dây điện nối với kíp điểm hỏa bộc phá. Khi Lăng đã nhập được vào gần tốp anh em bơi trên biển, khi vị trí con tàu ở xa đồng đội nhất, Nguyễn Văn Hiệu cho nổ tàu.

Một ánh chớp lóe lên, kế đó là một tiếng nổ cực mạnh, một cột lửa đỏ cùng với cột sóng cao hàng chục mét dựng lên giữa biển xanh. Những mảnh vỡ của con tàu văng tung tóe sang cả chiếc khu trục của địch đang hằm hè gần đó làm bọn địch trên tàu kinh hồn bạt vía. Tàu 645 và người Trung úy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.

Lúc đó là 11h30 ngày 24/4/1972. Thẩm Hồng Lăng cùng 15 thủy thủ còn lại của tàu 645 sau đó đều bị địch dùng trực thăng và tàu quây bắt trên biển, rồi người thì bị đưa về Sài Gòn giam ở Chí Hòa, người thì bị giam ngay tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, 16 anh được trao trả.

Khúc tưởng niệm bên biển Đồ Sơn

Chia tay những người đồng đội của Nguyễn Văn Hiệu, tôi bỗng dưng không muốn trở lại phố phường ồn ã náo nhiệt mà muốn ra với biển. Người chở tôi ra biển chiều nay là Tuấn, cháu gọi liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu là ông ngoại. Tuấn mới gần 30 tuổi, cao ráo đẹp trai, ăn nói lễ phép, một vợ một con, tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, giờ về Hải Phòng làm doanh nghiệp cùng bố mẹ vợ. Nói chung Tuấn là một thanh niên thành đạt.

Vừa lái xe, Tuấn vừa kể cho tôi nghe về cuộc tìm kiếm hài cốt ông ngoại hồi tháng 3 vừa rồi. Tuấn bảo có lẽ ông cháu phù hộ cho cháu lắm, nên chính cháu đã gặp được các cô chú ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA ở Hà Nội, rồi được các nhà ngoại cảm ở đấy chỉ dẫn, tìm đến tận nơi xác ông cháu theo gió mùa Tây Nam năm ấy trôi dạt vào bờ đảo Phú Quốc, tấp vào một gốc cây dương ngay bãi cát ven bờ biển.

Xác ông cháu nằm lại dưới gốc dương đó suốt 37 năm, cát vùi lấp năm này qua năm khác sâu tới gần 6 mét. "Tàu nổ tung, sao còn xác hả Tuấn?" - tôi lục vấn. Tuấn bảo: "Không, không phải xác, cháu dùng sai từ, mà là hài cốt chú ạ. Mà cũng chỉ có một số phần xương thôi, gồm xương sọ một ít, xương vai một ít, nhiều nhất là đoạn xương hông...".

“Làm sao biết đó là hài cốt của ông cháu?". "Cháu đã nhờ giám định xương cẩn thận rồi, cả theo cách khoa học và theo mẹo tâm linh, lại được các chú bên Vùng 5 Hải quân giúp đỡ gia đình cháu vô cùng chu đáo trong việc đào bới tìm hài cốt, trong việc chuyển hài cốt đưa về nghĩa trang liệt sĩ ngoài Hải Phòng này. Có ngày cả một đại đội hải quân Vùng 5 cùng máy xúc làm việc cật lực bên bãi cát chú ạ. Công phu lắm, tận tình lắm, "nghĩa tử nghĩa tận" là thế chú nhỉ?".

Tôi khẽ khàng với Tuấn: "Tình đồng đội nữa cháu ạ...". Tôi không nỡ tranh luận nhiều với Tuấn. Cháu còn quá trẻ. Khi ông cháu ra trận và hy sinh, cháu còn chưa ra đời. Trọn vẹn một thế hệ đã qua rồi. Nhanh như cánh hải âu vụt liệng qua bến cảng...



Cựu chiến binh Thẩm Hồng Lăng (bên trái).

Ngược chiều với xe chúng tôi, thỉnh thoảng lướt qua dăm ba chiếc xe "siêu hạng" bóng lộn chở những "tay chơi" từ Casino Đồ Sơn trở về sau một cuộc đỏ đen sát phạt. Tiếng chát xình rốc ráp mê tan từ xe ngược chiều mở hết cỡ át cả tiếng CD "Có một bài ca không bao giờ quên" trên xe Tuấn. Họ vừa thắng hay thua trên casino, nào ai hay?!

Chỉ biết rằng phóng vun vút thế kia, nhạc nhẽo ầm ĩ thế kia, đỏ đen không biết bao cuộc thế kia, chắc chắn họ chưa bao giờ nhìn thấy, chắc chắn họ không bao giờ biết đến, ngay ven đường lên casino kia, ngay dưới chân ngọn núi có sòng bạc ấy, ngay nơi bãi biển Đồ Sơn đó, 40 năm trước, là bến xuất quân của Đoàn tàu không số, là nơi ra đi và mãi mãi không về của Nguyễn Văn Hiệu và hàng trăm đồng đội của anh.

Mà sao Hải Phòng không đặt tên họ cho những con đường ven biển Đồ Sơn này nhỉ? Và cả trong Quảng Nam quê anh nữa chứ? Nếu có, chắc chắn sẽ có con đường mang tên Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Phan Vinh và những anh hùng liệt sĩ khác đã từ bãi biển này ra khơi để đi vào bất tử?

Chiều nay mưa vẫn nặng hạt, biển vì thế vắng tanh vắng ngắt. Bến Nghiêng ngoài bãi 2 Đồ Sơn không một bóng người, như là để thâm nghiêm hơn, hùng vĩ hơn, như là để sừng sững hơn bên doi cát đằng kia, tấm bia tưởng niệm, bức tượng đài ghi công những người thủy thủ anh hùng của đoàn tàu không số.

Chợt nhớ lời chiến sĩ lái tàu 645 Thẩm Hồng Lăng lúc chia tay tôi: "Làm sao quên được phút vĩnh biệt người đồng đội, người chỉ huy của mình. Tôi nhớ lắm bóng hình anh Hiệu, dáng cao gầy mảnh dẻ, vời vợi trên boong tàu giữa trùng khơi, hai tay nắm chặt 2 đầu đoạn dây điện kết nối với khối thuốc nổ hơn 70 tấn chở trên tàu và cho chập nổ con tàu để khỏi rơi vào tay giặc...".

Lại nhớ lời người thủy thủ thương binh Lưu Công Hào nói với tôi lúc ở Hải Phòng: "Tôi bị thương khi tàu số 43 của chúng tôi đụng tàu địch ở vùng biển Quảng Ngãi tháng 2/1968. Cuộc chiến không cân sức với tàu Hạm đội 7, chúng tôi đành cho tàu nổ. Tôi bơi 5km vào bờ, rồi được du kích vớt lên, đưa về điều trị tại chính Trạm xá của chị Đặng Thùy Trâm tại Đức Phổ suốt trọn một tháng. Cả tháng ấy, bác sĩ Trâm trực tiếp điều trị cho tôi. Khi ấy tôi 21 tuổi, kém chị Trâm 4 tuổi.

Có những buổi trưa, chị ôm tôi vỗ về như với thằng em trai, tôi gục đầu vào vai chị, nghe chị hát những bản tình ca của các cô gái thời ấy thường ưa thích, cho dịu đi nỗi đau vết thương chiến tranh. Chị Trâm còn muốn "làm mối" tôi cho em gái chị nữa. Giữa bom rơi đạn réo, giữa gian khổ hiểm nguy, người con gái Hà Nội ấy, người bác sĩ trẻ ấy vẫn hát tình ca, vẫn ghi nhật ký, vẫn học ngoại ngữ, vẫn mong kết nối những mối tình ngoài việc chữa lành những vết thương...

Giống như Nguyễn Văn Hiệu, chị Trâm và bao người lính khác trong cuộc chiến tranh giữ nước đã đối diện với cái chết sao mà bình thản, đã dám hy sinh sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không chỉ là những anh hùng, họ là những VỊ THÁNH anh ạ...".

Đã hoàng hôn của một ngày. Biển lại dâng thủy triều. Dưới ngọn thủy triều kia là những con sóng ngầm, dưới những con sóng ngầm là đáy biển, là cát, dưới lớp cát trắng phau kia có những trái tim thắm đỏ đã hóa ngọc của bao liệt sĩ còn nằm dưới đó mãi không về. Họ đã hóa trầm tích giữa biển khơi, hay đã hóa rong rêu huyền thoại? Không, họ vẫn mãi là NGỌN HẢI ĐĂNG, sừng sững rọi soi mọi cuộc bể dâu...

Xin tải tiếp một bài viết " Chuyện kể về người thuyền phó Tàu không số" đăng trên báo Bình Định

Sự kiện con tàu không số chở 36 tấn vũ khí, đạn dược cùng chất nổ từ hậu phương lớn miền Bắc vượt qua hàng ngàn cây số với bao lớp phòng thủ của địch, cập bến Lộ Diêu (Hoài Nhơn) an toàn vào năm 1964 là một sự kiện bất ngờ, trở thành nỗi kinh hoàng cho bọn ngụy quyền Sài Gòn ở Bình Định lúc bấy giờ... Một chiều đông mưa tầm tã, tại ngôi nhà số 433 đường Nguyễn Huệ - thành phố Quy Nhơn, ông Trần Phi Khanh- thuyền phó con tàu không số ấy - hồi tưởng lại chuyến đi "cảm tử" của mình ...


Ông Trần Phi Khanh
Ông Khanh kể: Nhằm tăng cường chi viện cho cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam, tháng 5-1959 Tổng Quân ủy Trung ương quyết định mở tuyến đường Hồ Chí Minh dọc dãy Trường Sơn từ Bắc vào Nam (đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) và đường vận tải trên biển tháng 7-1959 (đường Hồ Chí Minh trên biển). Đầu năm 1960, tôi - Trần Phi Khanh (tức Trần Ngọc Mỹ quê ở Ân Hữu - Hoài Ân) - thiếu tá thuyền trưởng Hải quân Việt Nam - được Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam biệt phái về Bình Định làm cán bộ tham mưu Ban Quân sự tỉnh, chuyên trách công tác nghiên cứu tình hình, chuẩn bị bến bãi cho tàu không số chở vũ khí vào vùng biển Bình Định. Sau một thời gian nghiên cứu, phân tích tình hình, tôi nhận thấy chỉ có Lộ Diêu là nơi có thể đảm bảo các yếu tố bí mật, bất ngờ, thuận tiện cho tàu cập bến.

Tháng 7-1963, trước yêu cầu bức xúc của tình hình, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định quyết định thành lập Đoàn công tác đặc biệt gồm 4 đảng viên: Lê Văn Nốt (Lộ Diêu), Phạm Văn Khương và Phạm Văn Kiệm (Phú Thứ - Mỹ Đức) thông thạo đường biển do tôi phụ trách ra Bắc trực tiếp báo cáo với Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo, Cục Bảo vệ và Ban Chỉ huy Lữ đoàn 125 Tàu không số thuộc Cục Hải quân về tình hình chuẩn bị bến bãi và xin cho tàu chở vũ khí vào. Kể đến đây, giọng ông nghẹn ngào xúc động: Nói thật, lúc được giao nhiệm vụ đặc biệt này, tôi rất vinh dự và tự hào dù biết cuộc hành trình vượt Trường Sơn sẽ rất gian khổ. Nhưng sự tin tưởng của cấp trên và sự khát khao của nhân dân được vũ trang khởi nghĩa giành lấy quyền sống và giải phóng quê hương đã thôi thúc chúng tôi bằng mọi giá phải lên đường.

Sau gần 4 tháng vượt suối đèo qua bao rừng thiêng nước độc, ngày thì đói cơm, thiếu muối, có đêm gió rét, mưa dầm dai dẳng mà bọn vắt rừng cứ như đỉa đói đeo bám bất cứ chỗ nào trên da thịt để hút từng giọt máu còn sót lại của chúng tôi. Thế rồi tất cả cũng qua. Tháng 11-1963, đoàn chúng tôi đã có mặt tại Hà Nội trong niềm vui khôn cùng.


Đ/c Võ Nhân Huân (bên phải hàng thứ 2) thuyền trưởng chuyến tàu không số đầu tiên chụp ảnh lưu niệm với Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Tại Hà Nội, chúng tôi trình bày với đồng chí Hàm - Cục trưởng Cục Bảo vệ thuộc Bộ Tổng tham mưu - và sau đó tiếp tục làm việc với đồng chí Phước (Lữ đoàn 125 Hải quân) phụ trách đoàn tàu không số chuyên lo phục vụ chiến trường miền Nam. Và, một điều đáng mừng khi hay tin có Đoàn cán bộ từ Bình Định ra xin chi viện vũ khí, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho gặp. Tôi lại vinh dự được trực tiếp báo cáo với Thủ tướng ba nội dung mà trước khi lên đường, đồng chí Trần Quang Khanh - Bí thư Tỉnh ủy Bình Định - giao phó: lòng khát khao được vũ trang khởi nghĩa của nhân dân Bình Định; quyết tâm của Tỉnh ủy Bình Định trong việc thực hiện Nghị quyết 15 của T.Ư Đảng; khó khăn về vũ khí đạn dược, đang ngày đêm chờ T.Ư chi viện. Nghe xong, Thủ tướng nói: Đồng chí hãy yên tâm về báo lại với đồng bào miền Nam rằng Đảng, Bác Hồ, Chính phủ luôn vì miền Nam ruột thịt, sẽ lo chi viện không chỉ vũ khí, đạn dược mà còn cả những gì các đồng chí cần, đồng bào miền Nam cần cho cuộc chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Vậy là phương án, kế hoạch do tôi đề xuất đã được chấp nhận.

Ngày 9-10-1964, Tàu không số thuộc Lữ đoàn 125 Hải quân đã được biên chế tổ chức, gồm 4 cán bộ chỉ huy và 8 thủy thủ, trong đó có Đoàn công tác đặc biệt do Thường vụ Tỉnh ủy cử ra Bắc tháng 7-1963, chở 36 tấn vũ khí đã được lệnh rời căn cứ. Lúc này, thuyền trưởng tàu là đồng chí Phạm Vạn (quê Quảng Ngãi), tôi là thuyền phó 1, đồng chí Trần Phấn là thuyền phó 2. Đồng thời, chúng tôi cũng thành lập Chi bộ gồm 8 đảng viên: Đồng chí Thanh (Khánh Hòa) làm bí thư, tôi và đồng chí Vạn là chi ủy viên - đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong việc quyết định sứ mệnh lịch sử của con tàu khi gặp tình huống đột biến, không để lọt vào tay địch.

Buổi tiễn đưa tại bến Hải Phòng có đồng chí Phạm Hàm - đại diện Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Trà - Chính ủy Tư lệnh Hải quân đã nói rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của chuyến đi, phân tích thuận lợi, khó khăn, ven biển khu V bãi ngang không có sông rạch và rất trống trải, do đó Tàu không số sẽ có thể gặp địch và phải chiến đấu. Như muốn truyền đạt tình cảm của T.Ư, của Quân chủng Hải quân đến quê hương người anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ và truyền thêm ý chí quyết tâm cho từng thủy thủ của tàu, đồng chí đã xúc động nói: "Có thể chuyến đi này các đồng chí không trở về nữa, nhưng hi vọng điều ấy không xảy ra. Quân chủng rất tin tưởng các đồng chí hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ và trở về mạnh khỏe". Thú thật, khi nghe đồng chí ấy nói, chúng tôi cũng xúc động lắm nhưng một khi đã dám nhận nhiệm vụ thì phải quyết tâm làm và chấp nhận hi sinh.

Đúng như dự đoán, sau 2 tuần ra khơi, gặp phải gió mùa cấp 7, chiếc tàu vỏ gỗ nhỏ chở 36 tấn vũ khi không chịu đựng nổi phải quay trở về. Đến ngày 26-10-1964, biển bớt động, tàu không số được ngụy trang thành tàu đánh cá xuất phát. Ra đến hải phận quốc tế, tàu chiến hạm đội 7 của Mỹ phát hiện, cho 2 máy bay khu trục quần đảo bám sát boong tàu ta suốt 8 giờ liền, muốn thả bom. Chúng tôi trên tàu ngụy trang trên lưới đánh cá, dưới súng đạn, thuyền viên mặc đồ công nhân, trên tàu treo cờ quốc tế. Cán bộ chiến sĩ trên tàu vẫn bình tĩnh, điều khiển tàu, sẵn sàng chiến đấu. Mỗi đồng chí đều chuẩn bị sẵn 12 quả thủ pháo nặng 20 kg, nếu địch phát hiện thì giựt cho nổ tàu. Chúng tôi lúc này căng lắm, địch giãn ra nhưng vẫn theo dõi. Ngày thứ 2, 3 chúng tôi chuyển hướng vào Bình Định.

Nhờ ngụy trang tàu tốt nên địch vẫn chưa hành động, nhưng chúng vẫn nghi, gọi hải quân ngụy ở Đà Nẵng cho 2 tàu chiến lớn ở Đà Nẵng theo vào. Cái đi trước, cái đi sau... Cứ thế bám theo tàu ta. Đêm 30-10 gần hải phận Bình Định, tàu ta chuẩn bị chuyển hướng thì tàu địch đến gần sát. Chúng tôi tính toán khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng là vào bến nhưng địch như vậy nên không dám vào thẳng mà đi vòng nên kéo dài thời gian. May sao lúc ấy trời mù, gió lớn, mưa dầm, sóng lên...

Tàu địch sợ quá không dám theo nữa và bỏ hẳn. Thấy thế mình mừng lắm. Tàu mình bị sóng đánh dạt hẳn vào gần bờ. Đồng chí Phấn nghe sóng vỗ trên gành đá thì biết gần bến Tân Phụng (Mỹ Thọ - Phù Mỹ), lúc này đã hơn 3 giờ sáng, tàu theo hướng bắc ngược gió quay ra vùng biển Lộ Diêu lúc 4 giờ sáng ngày 31-10-1964. Trời vẫn mưa to, gió mạnh, sóng lớn không thể vào sát bờ, Ban chỉ huy tàu quyết định mở hết tốc lực lượn theo đà sóng lao thẳng vào vũng Lộ Diêu...

Biết là không kịp đưa tàu ra hải phận quốc tế nữa, nên khi lấy vũ khí xong, Ban chỉ huy tàu cho tháo máy và các thiết bị trên tàu, đổ dầu, đặt kíp nổ đốt cháy tàu suốt 3 ngày đêm. Bọn hải thuyền ở Tam Quan và Đề Gi tuần tiễu trên biển và máy bay quần đảo trinh sát nhưng chúng cho là tàu đánh cá của dân bị sóng dập và bốc cháy nên không để ý, ta cũng phao tin như vậy để đánh lạc hướng địch. Cũng trong đêm ấy, ta huy động thêm lực lượng từ Hà Ra, Phú Thứ cùng lực lượng có sẵn ở Lộ Diêu hoạt động liên tục trong 10 ngày đêm, bí mật vận chuyển toàn bộ vũ khí về căn cứ an toàn. Đây là chuyến tàu đầu tiên của lực lượng hải quân miền Bắc mở đường Hồ Chí Minh trên biển chuyển chở vũ khí bí mật, an toàn chi viện cho chiến trường miền Trung. Số vũ khí này tăng cường trang bị cho bộ đội chủ lực Quân khu V và lực lượng vũ trang trong tỉnh, góp phần vào chiến thắng chiến dịch Đông Xuân 1964 - 1965 với những trận An Lão, Đèo Nhông, Dương Liễu, Gò Bồi… mở ra vùng giải phóng cắt đường số 1 từ Bồng Sơn đi Quảng Ngãi, tạo thế và lực mới trong giai đoạn chiến tranh cục bộ.

Nhìn nét mặt hân hoan của ông lúc này, tôi chợt hỏi đến tâm trạng của ông như thế nào khi bị địch theo dõi suốt mấy ngày đêm trên biển. Đang vui, đôi mắt ông chợt đăm chiêu: "Nói thật, lúc đó về đến quê mình rồi, tôi căng như sợi dây đồng giữa sự sống và cái chết, giữa cái còn - cái mất, thất bại và thành công, bởi về đến quê mà không hoàn thành nhiệm vụ. Mà điều quan trọng nhất đối với đồng bào mình, mất đi số lượng vũ khí này quả thật là một tổn thất lớn. Cho nên lúc đó chúng tôi chỉ biết nguyện cầu - nói hơi mê tín một chút nhưng sự nguyện cầu lúc đó đối với chúng tôi là một niềm tin lớn... Và sự thật là vũ khí đã được vận chuyển đến nơi an toàn...".

Chiến công lịch sử của Tàu không số đã trở thành nỗi lo sợ của bọn ngụy quyền lúc này. "35 năm sau, chiến công này mới được công bố rộng rãi. Một số cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...". Ông Khanh xúc động đến nghẹn ngào.

(theo Báo Bình Định)

Hôm nay đọc trên báo Lao Động thấy chuyện rất xúc động về tìm thi hài AHLLVT Nguyễn văn Hiệu:
http://www.laodong.com.vn/Home/Them-mot-dieu-ky-dieu-ve-Anh-hung-Nguyen-Van-Hieu/20098/151176/Trang-1.laodong

Thêm một điều kỳ diệu về Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu
Lao Động Cuối tuần số 33 Ngày 16/08/2009 Cập nhật: 4:20 AM, 16/08/2009

Lễ truy điệu Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu tại Nghĩa trang TP Hải Phòng.
(LĐCT) - Năm 1972, trong chuyến chở vũ khí từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam, "Tàu không số"mang số hiệu bí mật là 645, do chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy bị địch phát hiện và tấn công. Trong lúc gian nguy, anh yêu cầu tất cả các chiến sĩ nhảy xuống biển, bơi ra xa, anh ở lại, rồi điểm hoả cho tàu nổ tung cùng với tàu địch.

37 năm trôi qua, trong tiềm thức của gia đình và đồng đội, ai cũng nghĩ máu xương của anh đã hoà quyện cùng biển khơi.

Nhưng bất ngờ, thêm một điều kỳ diệu đã đến...

Có được điều kỳ diệu ấy là nhờ tài năng của các nhà ngoại cảm của Liên hiệp Khoa học - Công nghệ tin học ứng dụng (UIA) và sự quan tâm đầy trách nhiệm của Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an, của các sĩ quan, chiến sĩ Vùng 5 Hải quân - đồng đội của người anh hùng.

Người con đất Quảng anh hùng
Nguyễn Văn Hiệu là một người con của đất Quảng Nam giàu truyền thống cách mạng. Năm 1951, rời quê hương anh nhập ngũ. Năm 1954, tập kết ra Bắc, anh được cử đi học rồi xuất ngũ chuyển ngành về công tác tại Đoàn đánh cá Hạ Long.

Nhưng, như những người tập kết ra Bắc, anh chỉ mong chờ từng ngày được trở về miền Nam chiến đấu. Năm 1962, khát vọng ấy đã thành hiện thực, Nguyễn Văn Hiệu được trở lại quân đội, biên chế vào Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân. Nguyễn Văn Hiệu trở thành sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, là chính trị viên kiêm bí thư chi bộ của tàu 645 - Đoàn 125.

Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu luôn là chỗ dựa tinh thần của cả đơn vị. Anh cùng đồng đội đã vận chuyển thành công 13 chuyến hàng vào Nam. Đến chuyến thứ 14, tàu 645 hai lần nhổ neo ra đi, song đều bị tàu địch kèm chặt, nên đành quay lại.

Ngày 12.4.1972, lần thứ ba tàu ra khơi, mang hàng cho quân khu 9. Đúng 17 giờ ngày 23.4.1972, khi chỉ còn cách Phú Quốc chừng 60 hải lý, tàu nhận được bức điện báo ngắn ngủi từ Bộ Tổng Tham mưu: "Bến động!".

Không còn cách nào khác, thuyền trưởng Lê Hà và chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu quyết định cho tàu quay mũi, lao ra vùng biển quốc tế. Đang lúc quay ra tàu ta chạm trán với một tàu khu trục Mỹ từ phía vịnh Thái Lan đi tới. Ngoài ra, phía trước còn có ba tàu địch nữa. Trong tình thế bị bao vây tứ phía, thuyền trưởng Lê Hà và chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu cho tàu phóng thật nhanh ra vùng biển quốc tế. Tàu khu trục Mỹ kèm sát, muốn "bắt sống" tàu 645. Đôi bên vờn nhau tới 5 giờ sáng hôm sau. Đến 7 giờ 45, địch xác định tàu 645 là của "Bắc Việt giả dạng", chúng lập tức gọi loa dụ hàng. Gọi hàng không xong, chúng bắn một loạt đạn uy hiếp trước mũi tàu ta. Lúc này, tàu 645 của ta mới nổ súng đánh trả.

9 giờ sáng. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu vẫn bình tĩnh động viên các chiến sĩ, phát huy hết hoả lực quyết liệt chống trả địch. Nhưng, bất ngờ, một quả đạn pháo lớn của địch bắn trúng bánh lái, tàu không thể di chuyển được nữa! Lại thêm 6 thuỷ thủ ta hy sinh, bị thương. Nguyễn Văn Hiệu yêu cầu thuyền trưởng Lê Hà dẫn anh em nhảy xuống biển, rời tàu. Chính anh sẽ là người cuối cùng rời tàu. Chất nổ được ém sẵn vào khoang máy.

Khi đồng đội đã xuống biển, Nguyễn Văn Hiệu vừa phát tín hiệu giả để kìm chân địch, vừa huỷ hết tài liệu. Xong đâu đấy, anh định nhảy xuống nước, thì thấy một tình huống vô cùng nguy hiểm: 16 chiến sĩ ta, phần lớn bị thương, phải cụm lại dìu nhau bơi. Con tàu mất lái, chạy vòng tròn, lúc thì đến gần đồng đội của anh, lúc thì lùi ra xa. Nếu tàu nổ tung, tính mạng của 16 đồng đội sẽ lâm nguy! Chính vì vậy, anh quyết định không rời tàu, thay đổi cách thức điểm hoả huỷ tàu.

Lo lắng cho tính mạng đồng đội, anh hét to: "Các đồng chí, khẩn trương lên chứ! Tôi sẽ về sau! Hãy báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!". Quay vào buồng lái, anh đánh bức điện cuối cùng về miền Bắc: "Báo cáo với Đoàn, tôi, chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu, đã hoàn thành nhiệm vụ. Cho tôi gửi lời chào chiến thắng!". Sau tín hiệu ấy, thấy tàu địch đang đến gần và biết chắc đồng đội đã ở khoảng cách an toàn, anh điểm nổ. Con tàu phát ra tiếng nổ long trời, tung lên cột nước trắng xoá, cao hàng chục mét.

Chính trị viên, bí thư chi bộ Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế! Năm ấy, anh vừa tròn bốn mươi.

Trung uý Nguyễn Văn Hiệu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, hạng Nhì. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

16 thuỷ thủ, chiến sĩ còn lại của con tàu 645 đều bị địch bắt, giam tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, các anh mới được trao trả về miền Bắc.

Vợ con anh nơi đất cảng Hải Phòng và những người đồng đội của anh ai cũng nghĩ rằng, kể từ ngày 24.4.1972 ấy, cùng với con tàu 645 nổ tung, chắc hẳn thân thể của anh đã hoà cùng sóng nước nơi vùng biển xa phía tây nam của Tổ Quốc...

Các chiến sĩ hải quân miệt mài tìm kiếm hài cốt Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.
Tín hiệu đầu tiên
Nguyễn Văn Hiệu ra đi, để lại mấy đứa con nhỏ cho người vợ trẻ ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng. Vượt lên nỗi đau, sự mất mát, chị một mình nuôi con khôn lớn, trưởng thành.

Noi gương ông, giờ đây, người con trai đầu, anh Nguyễn Đình Phương, hiện giữ chức Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng. Như các anh em mình, anh Phương tự hào về ba mình và luôn mong được một lần gặp linh hồn ba dù chỉ trong mơ.

Vũ Tuấn là cháu rể của anh Phương. Tuấn thường được nghe chú kể về người cha của chú, Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu. Và Tuấn nung nấu suy nghĩ phải làm được một điều gì đó, dù nhỏ bé, để giúp đỡ chú.

Những lần về thăm bố mẹ ở Hà Nội, Tuấn vẫn nghe bà con, bạn bè nói về ngôi nhà số 1 phố Đông Tác, phường Kim Liên, Hà Nội. Được biết, đó là trụ sở của Liên hiệp Khoa học - Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA). Tuấn bàn với chú Phương "Để con lên đăng ký. May ra mình sẽ gặp được linh hồn ông nhà ta".

Mất một ngày trời lân la tìm hiểu, mắt thấy tai nghe, Tuấn mới tin nơi đây là một "linh địa" để các gia đình triệu hồn các vong linh người thân đã mất trở về gặp gỡ, chuyện trò. Nhưng hỏi những gia đình đang đến đó "áp vong", họ cho Tuấn biết là đã đăng ký cách đây những 3-4 tháng.

Tuấn gọi điện thoại cho PGS-TS Ngô Tiến Quý - Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công An nhờ chú giúp đỡ. Ông Quý nhiệt tình" Đây là trường hợp của liệt sĩ Anh hùng nên sẽ được ưu tiên". Rồi chú cho gia đình địa chỉ của cô Nguyễn Thị Nguyện (một nhà ngoại cảm thuộc UIA quản lý). Sau khi nghe anh trình bày, cô Nguyện nói: "Khó lắm đấy. Cháu nên đi "áp vong" xem có tín hiệu không đã rồi mới triển khai các bước tiếp theo". Câu cuối cùng cô Nguyện nói với anh lúc ấy là: "Quay lại đây, nếu cháu và cô có duyên với nhau!".

Liền sau đó, Tuấn lại đến số 1 Đông Tác, Hà Nội xin tìm gặp ông Tổng Giám đốc Vũ Thế Khanh để trình bày. Nghe xong chuyện, ông Khanh lập tức chỉ đạo để xếp lịch ưu tiên "giao lưu sớm"- "Vì đây là trường hợp liệt sĩ Anh hùng!".

Một tuần sau, gia đình anh Phương và Tuấn có mặt tại Liên hiệp. Đúng 6 giờ, gia đình thắp hương trên tam bảo tầng 4 và xuống tầng 2. Thật bất ngờ, khoảng hơn 1 giờ sau, liệt sĩ linh hiển về nhập ngay vào người con dâu là Thoa, vợ anh Phương. Điều đặc biệt, bất ngờ nhất là linh hồn liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu nói: "Các con hãy đi tìm ba! Xương cốt ba vẫn còn. Ba sẽ phù hộ để các con tìm thấy. Ba muốn được về. Chứ ở đây, ba không có đồng đội, buồn lắm!".

Sau lần "giao lưu trực tiếp", các cán bộ của UIA tiếp tục hướng dẫn gia đình anh Phương làm lễ cầu siêu cho tất cả hương linh họ tộc và liệt sĩ trước. Sau đó, Liên hiệp khoa học UIA sẽ sắp xếp để gia đình được gặp nhà ngoại cảm.


Đãi cát đi tìm
Dù vẫn còn có người bàn ra tán vào, cuối cùng anh Nguyễn Đình Phương vẫn quyết tâm sẽ lên đường đi tìm hài cốt. Trước khi đi, anh Phương lại lên Liên hiệp UIA. Ông Vũ Thế Khanh - Tổng Giám đốc Liên hiệp UIA - ân cần, dặn dò anh Phương rất kỹ và cung cấp thêm một số điện thoại của các nhà ngoại cảm khác, trong đó có số điện thoại của cô Năm Nghĩa (tức Nguyễn Minh Nghĩa - một nhà ngoại cảm tận tâm, tài năng và hiện cũng đang tìm mộ liệt sĩ tại đảo Phú Quốc), rồi nói thêm: "Vào trong đó, có gì khó khăn thì cứ gọi cho chị Nghĩa, nói là được anh Khanh giới thiệu!".

Ngày 15.4.2009, gia đình anh Phương lên đường đi Phú Quốc. Từ sân bay Cát Bi đến TPHCM sau đó bay tiếp đến Phú Quốc. Xuống sân bay Phú Quốc, đoàn được Vùng 5 Hải quân đón về đơn vị, cách đó khoảng 35km. Đến nơi, đoàn được các đồng chí ở Phòng Chính sách của Huyện đảo tiếp đón thân thiện và tạo điều kiện giúp đỡ tận tình.

Sau khi ăn cơm tối xong, khoảng 9 giờ, cả đoàn thuê taxi tìm đến nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất đảo để thắp hương. Viếng xong về đến doanh trại là 10 giờ 30, cả đoàn lại giở bản đồ ra để kiểm tra xác định lại vị trí khu vực mình đang ở và gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì được biết: "Cụ Nguyễn Văn Hiệu cũng vừa về chỗ cả đoàn vừa giở bản đồ ra xem đấy. Nơi mọi người ở đã rất gần cụ rồi!". Nhà ngoại cảm nói thêm: "Đảo Phú Quốc như hình giọt nước ngược và phần nhỏ nhất là vị trí cụ nằm. Sáng mai thức dậy, anh Phương đi ra cổng có một ngã ba gần đó, anh đi về phía Đông Nam khoảng 2km thì rẽ phải khoảng vài trăm mét là đến gần mép biển, sẽ có một người tên là Long hay Phong gì đó dáng cao cao, da đen đen sẽ chỉ cho anh chỗ cụ nằm".

Mừng quá, đoàn cùng hai đồng chí đại đội phó vệ binh nhanh chóng xác định vị trí nhà ngoại cảm nói chính là mũi Con Dương trên bản đồ của hải quân. Một lát sau lại có thêm đồng chí Tham mưu phó huấn luyện tên là Mùi đến cùng nghiên cứu hải đồ. Và thật may, đồng chí Mùi cho biết:"Tôi đi biển đã 30 năm nên rất rõ tình hình khu vực này. Nếu đúng là khi điểm hoả cho tàu nổ ở vị trí phía Tây Nam đảo Phú Quốc thì rất có khả năng Cụ sẽ trôi dạt vào đây, vì ở đây có một xoáy nước, thường xuyên chạy theo hướng Nam, sau đó cuộn vào phía Đông Nam đảo Phú Quốc rồi tấp vào bờ. Các thuỷ thủ, ngư dân đánh bắt cá khi gặp bão biển đánh đắm tàu bè thường đều được dạt vào đây". Những thông tin mới này thật sự bổ ích vì góp phần củng cố thêm niềm tin chắc chắn cho gia đình.
Ngày thứ hai (16.4.2009), đúng 5giờ30, cả nhà bật dậy, rồi cùng ra ngoài đi ăn sáng. Ăn xong, có đồng chí Phong - Trưởng phòng chính sách của Vùng 5 Hải quân - đến đón (hệt như thông tin của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đã cung cấp trước). Cả đoàn lên xe đi theo hướng dẫn đã biết của nhà ngoại cảm (được đánh dấu trên bản đồ).

Sau sự hướng dẫn qua điện thoại của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, tất cả mọi người có mặt ai vào việc nấy, người thì bày lễ, người quay về huy động thêm nhân lực. Cúng lễ xong, đang hoá vàng dở thì cô Thoa (vợ anh Phương) bỗng dưng ngồi thụp xuống, nước mắt chứa chan, thân thể thì lắc lư giống hệt hôm "áp vong" ở Hà Nội. Đã có kinh nghiệm từ trước, Anh Phương hỏi: "Có phải ba về với chúng con không?". Cô Thoa mắt nhắm nghiền, toàn thân đung đưa, chợt gật đầu lia lịa. Anh Phương hỏi nhanh: "Thế đây có phải là chỗ ba nằm không?". Cô Thoa lại lắc lư gật đầu, càng lúc càng khóc nhiều. Thấy thế anh Phương lại nói: "Hôm nay chúng con đến cất bốc hài cốt của ba, ba có vui không? Ba có dặn dò gì chúng con không?". Cô Thoa lại gật đầu. Cả đoàn lúc ấy đều nghẹn ngào khóc. Một lúc sau, cô Thoa mới trở lại trạng thái bình thường.

Cả gia đình cùng với một trung đội hơn 30 con người hăng hái bắt tay vào việc tìm kiếm. Nhưng cứ đào tới đâu, cát sụt xuống tới đó. Đoàn chia làm hai đội, một đội đào, một đội dùng tay tát nước, cứ như vậy liên tục. Sức người quá nhỏ bé với thiên nhiên. Cát lở rồi cát lại bồi. Cả đoàn nhìn nhau không ai nói câu gì... Bắt đầu đào là từ 9 giờ 30, ai cũng hăng hái kẻ xúc người đổ, đến 12 giờ, nhìn phạm vi đã đào được cũng mới chỉ toen hoẻn...

Nắng càng lúc càng gay gắt, không khí ngột ngạt. Tưởng do nhân lực chưa đủ, gia đình anh Phương lại yêu cầu đơn vị cho thêm một đại đội nữa. Có đông người hỗ trợ, diện tích đất cũng dần mở rộng ra đáng kể, tuy nhiên so với yêu cầu của nhà ngoại cảm thì mới chỉ được 1/4. Gia đình anh Phương thống nhất phải báo cáo với Tư lệnh Vùng 5 và xin được giúp đỡ. Không ngờ, buổi chiều cùng ngày, chính đồng chí Chính uỷ Vùng 5 đã đến thăm động viên gia đình, rồi ngay lập tức liên lạc với Quân khu 9 cạnh đó thuê ngay một cái máy xúc.

Ngày thứ tư (18.4.2009), cả buổi sáng công việc vẫn chỉ tập trung đào và theo dõi nhưng chưa thấy có dấu hiệu gì đặc biệt.

Gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, Tuấn được chỉ đạo thêm "Cứ đào mở rộng sang hướng tây nam khoảng 3-5m nữa sẽ tìm thấy xương của cụ". Niềm hy vọng đó tiếp thêm sinh lực cho mọi người. Thời gian như chậm lại. Cả đoàn lại lao vào việc với một quyết tâm lớn. Cuối giờ chiều, khi đoàn đã đào sâu thêm được 6m, rộng dài 10m nữa, phần đã đào thành cả một núi cát sừng sững mà vẫn chẳng thấy gì. Tuấn gọi điện cho nhà ngoại cảm. Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư nói: "Đã đào hết diện tích tôi nói chưa?". Tuấn quả quyết: "Dạ, đã đào hết khu vực thầy yêu cầu rồi ạ" và nhanh nhẩu: "Thế thầy thấy cụ em như thế nào ạ?". Nhà ngoại cảm bảo: "Hôm qua trông vẻ mặt cụ tươi tỉnh, phấn khởi lắm. Nhưng hôm nay thấy cụ cứ rầu rầu. Không biết có phải vì mình đã bỏ sót chỗ nào đó không? Hay đào chưa tới? Tôi e là...".

Nghe nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư nói xong, cả gia đình anh Phương hoảng thật sự. Lúc này thì tâm trạng mọi người đã thật sự rất bi quan, mệt mỏi, lo lắng và tỏ vẻ hoang mang lắm lắm. Liên lạc với nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì... " Dễ thường gia đình ta đành phải về thôi. Cụ vẫn đang đứng sau lưng anh Phương, mặt rất rầu và nói rằng đoàn đã đào sai vị trí! Bây giờ đoàn hãy tiếp tục đào theo hướng rừng thông xem sao. Tôi sẽ giao lưu thêm với cụ rồi báo cho gia đình tiếp...".

Tuấn nhanh nhẩu rút điện thoại ra tìm số điện thoại các nhà ngoại cảm khác, hy vọng có thêm được manh mối gì... Gọi cho cô Nguyện, sau khi nghe Tuấn trình bày, cô nói: "Đúng vị trí rồi đấy. Cứ triển khai đào theo hướng Đông Nam đi, chắc chắn sẽ thấy cốt".

Cả đoàn lại bắt tay vào việc. Khoảng 10 giờ 30, trời vẫn đang nắng nhưng lại lác đác có mưa.
Đào một lát, Tuấn lại gọi cô Nguyện, lần này thì cô nói: " Nhìn theo hướng tây nam có thấy một chạc ba cây gỗ giống hình cái súng caosu không?". Tuấn thưa: "Có thấy ạ". Cô Nguyện bảo tiếp "Vậy thì hãy đào theo hướng tây nam, tây nhiều nam ít. Chiều nay chắc chắn sẽ thấy". Cả đoàn lại tiếp tục đào theo hướng mới.

Ăn cơm trưa xong, mọi người lại tiếp tục đào. Tuấn gọi cho nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thì thầy vẫn khẳng định: "Cứ theo hướng tây nam mà đào tiếp". Chiều, Tuấn lại gọi cho cô Nguyện thì bị mắng: "Gia đình đang dùng máy để đào phải không? Dừng lại ngay. Đi tìm hài cốt mà dùng máy thì không thể tìm được đâu. Bây giờ hãy sàng chỗ cát đã xúc đi. Xương cốt cụ ở hết trong đó rồi".

Nghe lời cô Nguyện, đoàn lại huy động phương tiện để sàng cát. Đến khoảng 15giờ30 đoàn tìm được mảnh xương đầu tiên. Đó là một mẩu xương được dính bởi một đoạn rễ cây thông rất khó thấy. Qua năm tháng, nhựa thông bám vào xương khiến cho mảnh xương chuyển thành màu tro đen, bị lẫn bởi lòng đất đen không dễ gì thấy rõ. Nhưng cầm mảnh xương trong tay, anh Phương có một cảm giác khác lạ ngay.

Ngày thứ năm (19.4.2009). Sáng sớm, cả đoàn lại bắt tay vào việc với một tinh thần hăng hái đặc biệt. Việc tìm thấy mảnh xương hông thật sự đã khích lệ khí thế lạc quan. Cả đoàn hôm nay với hơn 100 con người lại cần mẫn kiếm tìm.

Nghĩa tình đồng đội và tình huyết thống hun đúc và thôi thúc lòng quyết tâm của mọi người. Đúng 15 giờ 30, các chiến sĩ tìm được 1 mẩu xương đùi. Không tả hết niềm sung sướng của gia đình anh Phương và toàn đoàn. Rồi lần lượt các mảnh xương dần dần lộ ra: xương cánh tay, xương đòn vai, xương ức... Tiếp tục sàng sẩy và vê từng nắm cát, các phần xương cơ bản của các bộ phận cơ thể của cụ đã khá đầy đủ.

Ngày thứ bảy (21.4.2009). Gia đình anh Phương cùng các chiến sĩ, bị bày lễ cảm ơn thần Biển và các vị thần Thổ Địa, thỉnh hương hồn anh hùng Nguyễn Văn Hiệu và đồng thời nói lời cảm ơn, tiễn biệt các vong linh bị tai nạn đắm tàu thuyền phiêu bạt nơi đây, bao năm đã kề cận sẻ chia với liệt sĩ.
Cả gia đình anh Phương rưng rưng cảm động không nói nên lời bên cạnh các cán bộ chiến sĩ của Tiểu đoàn Hải quân anh hùng đã trọn một tuần lễ không quản gian khó, chung sức chung lòng với gia đình tìm được hài cốt của Anh hùng.

Ngày trở về...
Ngày 29.4. 2009 Hải Phòng bắt đầu vào hạ. Nhưng hôm chúng tôi từ Hà Nội về đất cảng để dự lễ truy điệu Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu thì trời đổ mưa rào, không khí mát mẻ lạ thường. Trên đường đi, chúng tôi được nghe Tuấn say sưa kể lại những toàn bộ hành trình của việc đi tìm hài cốt của anh hùng. Hết buổi sáng, xong các nghi thức thủ tục phúng viếng tại nhà, đoàn xe rước linh cữu của Anh hùng đi về phía Nghĩa trang của Thành phố Hải Phòng.

Vừa đến cổng nghĩa trang trời chợt hửng những tia nắng vàng hanh khiến cho khu nghĩa trang như được dát vàng nhẹ, nắng chiếu lên những hàng cây lấp lánh sao. Cho tới khi, đại diện chính quyền và đơn vị hải quân đọc lời truy điệu và gửi gắm những tình cảm tri ân tiễn đưa Anh hùng về với cõi vĩnh hằng thì trời lại đổ mưa rào rào... Đây là lần thứ hai gia đình và đồng đội của Anh hùng làm lễ truy điệu cho anh. Lần thứ nhất là vào năm 1978.

Nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư cùng đi với đoàn Liên hiệp KHCN tin học ứng dụng UIA có về dự lễ. Khi vừa bước vào để làm lễ và đi vòng quanh linh cữu để tiễn biệt anh hùng, nhà ngoại cảm nói nhỏ với tôi: "Liệt sĩ đang đứng bên phải linh cữu chào mọi người và nói lời cảm ơn chúng ta đấy!".

Thay cho lời kết
Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu hy sinh vì đất nước. Chiến công của anh cũng như các kỳ tích của các chiến sĩ " tàu không số" đã làm nên bài ca bất tử về một - "con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển Đông". Những chiến sĩ của "tàu không số", trước khi ra khơi đã tự làm lễ truy điệu cho mình, ngày rời bến cũng có thể xem là ngày hy sinh. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng với chúng ta, những việc làm tri ân các anh hùng là điều không thể nào quên. Quê hương anh và mảnh đất Hải Phòng nơi vợ con anh sống, mãi mãi không thể nào quên người con anh hùng, ưu tú Nguyễn văn Hiệu. Một tượng đài mang tên anh trong lòng nhân dân và đồng đội của Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân thì đã có, nhưng tượng đài ghi tạc công lao và kỳ tích anh hùng của anh thì sao? Và ở Quảng Nam, Hải Phòng có lẽ nên có đường phố hoặc trường học mang tên người anh hùng Nguyễn Văn Hiệu.

"Có những cái chết hoá thành bất tử", mà không chỉ vậy, chính sự hy sinh của anh cũng như bao người lính đã ngã xuống đã góp vào hồn thiêng sông núi Việt Nam. Việc đi tìm kiếm hài cốt của anh cũng kỳ diệu hiếm có. Sự linh ứng của của Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu đã giao cảm với trái tim của các nhà ngoại cảm UIA, các nhà nghiên cứu của Viện KHHS Bộ Công An cùng bao người lính Hải quân - đồng đội của người anh hùng đã góp sức để làm nên thêm một điều kỳ diệu.

Ghi chép của Trần Thu Hà

Không chỉ là cổ tích
Tác giả: Dương Trọng Dật
Gió mùa đông bắc như bàn tay của nữ thần mùa đông, lạnh giá nhưng dịu dàng vuốt ve trên mặt tôi. Tôi mê đi trong cái lạnh của giọt mưa bám trên đầu thấm vào từng chân tóc, ngỡ mình đang lạc vào một vùng đất thiêng vừa lạ lẫm vừa quen thuộc.

Tôi đứng lặng bên bến tàu không số. Trời xám một màu chì. Cơn mưa phùn theo chân gió bấc bất ngờ ập xuống. Những giọt mưa trắng như những bông hoa thủy tinh giăng mờ trên mặt biển, huyền hoặc giống hệt bức tranh siêu thực của các họa sĩ tượng trưng. Nghe xao xác những hàng cây đang rụng lá. Gió mùa đông bắc như bàn tay của nữ thần mùa đông, lạnh giá nhưng dịu dàng vuốt ve trên mặt tôi. Tôi mê đi trong cái lạnh của giọt mưa bám trên đầu thấm vào từng chân tóc, ngỡ mình đang lạc vào một vùng đất thiêng vừa lạ lẫm vừa quen thuộc.


Quen thuộc vì đây là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Cái miền quê nghèo gắn liền với những cơn mưa phùn gió bấc cắt da của một thời thơ ấu cay nghiệt và đói rét. Nhưng lạ lẫm vì tôi vừa trở về từ vùng đất đầy nắng gió phương Nam, từ một đô thị sôi động quanh năm không có mùa đông. Thèm đến nao lòng một giọt mưa phùn, một cơn gió mùa đông bắc. Thèm cảm giác phóng xe trên đường Đồ Sơn, đón nhận vào tận thịt da cơn lạnh tê tê trên mặt, thả mình bồng bềnh trong sương như bước vào một miền cổ tích ở cõi thần tiên.



Tàu "không số" lữ đoàn 125 Hải quân vận chuyển vũ khí chi việm cho chiến trường miền Nam. Ảnh: tư liệu

Không chiến tranh và chết chóc. Đã qua rồi những ngày bom đạn giăng đầy đất cảng Hải Phòng. Thành phố biển cùng với đất nước đang rũ bùn vươn lên như những chàng trai Phù Đổng. Cái làng quê nhỏ của tôi, vốn là nơi “chó ăn đá gà ăn sỏi”, đang đổi thay hàng ngày với tốc độ đô thị hóa chóng mặt. Con đường cái quan lồi lõm ổ gà đã được trải nhựa láng. Con đò chở khách từ bao đời nay được thay thế bằng một cây cầu hiện đại, mà ngày ở quê, quần đùi đánh dậm có nằm mơ chúng tôi cũng không dám nghĩ tới. Vùng đất ao tù, nước đọng đã lột xác thành một tiểu đô thị, có đầy đủ các tiện nghi giống như Hà Nội, Sài Gòn. Người nông dân ở quê tôi bây giờ ngồi ở nhà cũng có thể bàn chuyện động đất ở Tứ Xuyên, chuyện bầu cử tổng thống Mỹ. Những làng quê nhỏ bé ấy là thước đo, là minh chứng sống động cho đường lối đổi mới toàn diện của Đảng ta. Nó làm sáng lên gương mặt của đất nước đang vững vàng bước vào thế kỷ 21, đổi mới mà không đổi màu, hòa nhập nhưng không hòa tan. Việt Nam đã trở thành một gương mặt mới, một thế lực kinh tế và chính trị được bạn bè quốc tế nể trọng…


Tôi lắng nghe tiếng rì rào của biển. Hình như mưa đã tan. Cây bàng mồ côi đang đớn đau thả những chiếc lá đỏ cuối cùng. Trong ánh hoàng hôn màu lửa của buổi chiều Đồ Sơn, tôi bần thần nhìn tên tuổi các anh ghi trên tấm bia tưởng niệm mà ngỡ như thấp thoáng đâu đây gương mặt của bạn bè, những chàng trai sông Hồng, sông Mã, sông Thương, sông Cấm. Những người khi ngã vào lòng biển vẫn con trai. Con đường từ Hà Nội đến Sài Gòn, từ Đồ Sơn đến Cà Mau không đơn giản tính bằng cây số. Nó phải được tính bằng máu và nước mắt của nhiều thế hệ đã đổ xuống cho đất nước này, trong đó có các anh. Các anh bước vào cuộc chiến tranh giữa lúc đất nước bước vào cuộc giao tranh khốc liệt nhất. Chấp nhận ra đi là cầm chắc cái chết trong tay. Không ai hứa hẹn với các anh về một thiên đường sau chiến thắng. Chính quả tim biết đau trước nỗi đau chung đã thôi thúc các anh tình nguyện ra đi. Đơn giản là Tổ quốc không có sự lựa chọn nào khác. Dân tộc không có sự lựa chọn nào khác. Đó là sự lựa chọn duy nhất và tất yếu của lịch sử.


Có thể rồi sẽ không còn ai hình dung ra gương mặt các anh. Nhưng điều đó liệu có ý nghĩa gì? Thịt xương các anh đã hòa vào biển cả, hóa thành chất muối mặn cho đời, bồi đắp nên dáng hình Tổ quốc. Tinh anh của các anh thấm vào từng thớ đất, biến thành nhựa trong cây. Nhưng khúc ca bi tráng của các anh không chỉ là khúc ca của một thế hệ. Lòng yêu nước không phải thứ độc quyền của riêng ai, nó như hạt vàng lẩn khuất trong tim mỗi người, chỉ chờ có gió lại rực lên. Nó đã cháy rực lên trong mũi tên đồng Cổ Loa, trong ngọn sóng Bạch Đằng, trong rồng lửa Thăng Long, trên con đường thấm máu và nước mắt đến độc lập tự do, xóa đi nỗi nhục mất nước. Nó sẽ tiếp tục cháy lên trên hành trình đầy chông gai, vượt qua mọi khó khăn, vượt qua chính mình, xóa nỗi nhục đói nghèo. Nó như sợi chỉ xanh lóng lánh trong tim mỗi người, nuôi dưỡng hồn vía Việt Nam, làm nên sức sống bất diệt của dân tộc.


Ca nô phá thủy lôi không người lái T5


Năm tháng sẽ đi qua. Trong tương lai, các thế hệ con em chúng ta sẽ được sống trong hòa bình. Nhưng không ai có quyền quên bến tàu huyền thoại. Huyền thoại về các anh, những người con bất tử của đường Hồ Chí Minh trên biển, huyền thoại về một cuộc chiến tranh nhân dân. Tôi chợt lạnh người khi nhớ đến giả thiết của một ai đó muốn lật lại lịch sử cuộc chiến tranh bằng luận điểm: “giá như”…Không! Lịch sử là cụ thể. Lịch sử không thể giả định. Không có thứ chủ nghĩa nhân văn chung chung. Chạy theo chủ nghĩa nhân văn kiểu “giá như” là chúng ta phản bội lại xương máu của hàng triệu người đã đổ ra trên chiến trường. Nó có nguy cơ đánh lộn sòng người yêu nước và kẻ bán nước, phủ nhận ý nghĩa tinh thần vô giá của cuộc chiến trang bảo vệ Tổ quốc. Tôi bỗng nhớ tới lời khuyên của một nhà báo Mỹ trong lần đến thăm và tiếp xúc với các đồng nghiệp Việt Nam “các anh đừng đi vào vết xe đổ của Đông Âu. Sai lầm của họ là đạp đổ tất cả, trong khi chúng tôi không lên án các cuộc chiến tranh, không hạ bệ Oasinhtơn. Mỗi dân tộc cần có những cái thiêng liêng để mà thờ”. Tôi nghĩ đó là một lời khuyên chân thành. Sẽ không có tương lai nếu điên cuồng đào bới lịch sử, tàn phá quá khứ. Phải chăng, lời cảnh tỉnh của người bạn khác chính kiến ấy cũng là bài học đáng suy ngẫm cho mỗi chúng ta…?


Một cơn gió lạnh làm tôi giật mình sực tỉnh. Mưa đã ngừng rơi từ bao giờ. Trong ánh hoàng hôn cuối cùng của chiều tà, tôi ngẩn ngơ nhìn sóng tung bọt trắng xóa như pháo hoa vỗ vào bờ cát. Hình như có ai đó khẽ khàng hôn lên mái tóc trắng bụi mưa, bạc màu vì sương gió của tôi. Tôi lắng nghe tiếng ca rì rầm của biển và có cảm giác mình đang bay lên cùng những cánh chim hải âu. Ngoài khơi, thấp thoáng bóng những con thuyền câu sải mình trên sóng bạc. Tôi nhìn những hàng cây đang rụng lá, cảm nhận đến từng mao mạch của mình, dòng nhựa sống đang âm thầm chuyển từ đất lên cây. Trong dáng vẻ gầy guộc của cỏ cây, trải qua cái khắc nghiệt của mùa đông đã nghe một mùa xuân mới đang về. Tôi lặng lẽ ngắm những gương mặt người xung quanh, sáng ngời như những bông hoa, trong đầu chợt hiện lên câu thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Nhất đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”.


No comments:

Post a Comment